vua chúa tranh nhau, thành ra ông chán việc đời, cứ uống rượu ngâm thơ cho khuây-khỏa. Ông rất sở trường về quốc-văn, có làm những bài ca như Sơn trung âm, Sở-từ điệu và Cung-oán ngâm khúc.
Phạm Đan-Phượng (Chiêu Lỳ) (1757 — 1793). Ông người làng An-trường, huyện Đông-ngạn, tỉnh Bắc-ninh. Tính ông hay uống rượu. Khi quân Tây-sơn ra đánh Bắc-hà ông bỏ đi tu, hiệu là Phổ-chiêu thiền-sư, thọ được 35 tuổi. Ông có để lại bộ Phổ-chiêu thiền-sư thi-văn tập.
Hồ Xuân-Hương.— Nàng sinh vào cuối đời Lê, tại phường Khán-xuân, ở quãng gần vườn Bách-thú ở Hà-nội bây giờ. Tổ-tiên người tỉnh Nghệ-an, di cư ra ở chỗ ấy. Nàng rất thôngtminh, năm 13 tuổi đã biết làm thơ. Về đường chồng-con có nhiều điều trắc-trở. Xem thơ của nàng thì biết trước nàng lấy lẻ ông phủ Vĩnh-tường, sau nàng lấy cai-tổng Cóc. Văn thơ của nàng rất tài-tình, ý-tứ dồi-dào, song có nhiều bài rất lả-lơi, kém vẻ nghiêm-trang.
Phạm đình Đổ (Chiêu Hổ) (1770 — 1840). Ông hiệu là Tùng-biên, người làng Đan-loan, huyện Bình giang, tỉnh Hải-dương. Sau khi nhà Lê mất rồi, ông ra làm quan với triều Nguyễn, làm đến chức Quốc-tử-giám Tế-tửu, rồi về trí-sĩ.
Những sách của ông có bộ Vũ-trung tùy bút, Tang-thương ngẫu lục, Kiền khôn nhất lãm. Ông lại còn để lại những thơ xướng họa với Hồ Xuân-Hương.
Ngyễn văn Giai. Người triều Lê.
Phan Mậu-Hiên — id —
Phạm Thấu. Người cuối đời Lê và đầu đời Tây-sơn.