Phan Kế-Bính. Ông người làng Thụy-khuê, gần Hà-nội. Ông học rộng và có khí-tiết, đỗ cử-nhân, không ra làm quan. Ông thường viết trong các báo-chí và chuyên về mặt khảo-cứu. Ông để lại sách Nam-hải dị nhân, truyện Trần Hưng đạo-vương Việt-Hán văn-khảo và sách Việt-nam phong-tục ký.
Trần đức Văn, ông là một người nho-học, thường viết ở các báo-chí, mất vào quãng 1920.
Hoàng gia Hội (1870 — 1938). Ông người làng Hạ-yến-quyết, tức là làng Cót, nay thuộc về ngoại thành Hà-nội. Ông đỗ cử-nhân năm Bính-ngọ (1906) và mất năm 1938.
Dương bá Trạc (1884 — 1944). Ông người làng Phú-thị, phủ Khoái-châu, tỉnh Hưng-yên, đỗ cử-nhân từ khi mới 17 tuổi, không ra làm quan. Ông chung thân lo việc nước, gặp nhiều gian-truân, khi bị đày ở đảo Côn-lôn, khi phải an trí ở Nam-kỳ, thế mà không bao giờ nản chí. Trong cuộc đại chiến-tranh (1939 — 1945), ông ra ở Tân-gia-ba rồi mắc bệnh mất ở đấy.
Từ Diễn-Đường. Ông người làng Từ-hồi, phủ Thường-tín, tỉnh Hà-Đông, có tiếng là hay thơ nôm.
Tú Quỳ. Người tỉnh Quảng-nam, không rõ họ gì và ở làng nào, có tiếng hay thơ nôm.
THƠ CỔ-PHONG
a. — Ngũ-ngôn cổ phong
Nguyễn Khuyến
1. Mùa hạ
Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thực oi-ả.