Trang:Việt thi.pdf/94

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.


VIỆT THI

II

Non nước tan-tành hệ bởi đâu,
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao-châu.
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cương-thường một gánh thâu.
Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Minh-sanh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thu![1]

CHÚ-THÍCH.— Trước khi mất, ông Phan Thanh-Giản có viết sẵn cái triệu chín chữ: Hải-nhai lão thư-sinh tánh Phan chi cữu.

NGUYỄN VĂN SIÊU

83. VẤN NGUYỆT

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con ngọc-thỏ đà bao tuổi,
Chớ chị Hằng-Nga đã mấy con?
Đêm thẳm cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn cứ thẹn vầng son.
Năm canh lơ-lửng chờ ai đó?
Hay có tình chi với nước non.

BA GIAI

84. DIỄU QUAN ĐỀ

Nhắc câu Thái-lĩnh với hồng-mao,
Chí khí quan Đề khảng-khái sao!
Thắt cổ chân lê buông xuống đất,
Trẫm mình đầu ngóc nghển lên cao.


  1. Bài này phần đông học-giả trong Nam đều cho là của cụ Nguyễn đình Chiểu. (Nhà xuất-bản chú).
97