dùng chữ Triều-đình, là vì lẽ rằng Triều-đình không quyền gì nữa.
Sự kén chọn các quan lại thì lệ cứ mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không xứng chức thì phải giáng xuống.
Khi nào quan viên về hưu-trí thì được ăn dân-lộc, như là quan nhất phẩm thì mỗi năm được 400 quan tiền dân-lộc của bốn năm xã; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan của hai ba xã; quan tam phẩm được 250 hoặc 150 quan của một hai xã; quan tứ phẩm được 150 quan của một xã; quan ngũ phẩm được 100 quan của một xã.
Đời bấy giờ lại đặt ra một phép rất hay như là cấm không cho các quan viên lập trang trại ở chỗ mình làm quan, bởi vì thường có nhiều người ỷ quyền thế mà hà-hiếp lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi những đồ gian-ác làm tôi-tớ, để quấy nhiễu mọi người, đến nỗi có nhiều nơi dân phải xiêu tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại cho dân, và lại có thể giữ liêm cho quan vậy.
Nhưng về sau, từ đời Trịnh-Giang 鄭 杠 trở đi, nhà chúa chơi-bời xa-xỉ, lại có nhiều giặc-dã, phải tìm cách lấy tiền, đặt ra lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà ai nộp 2 800 quan thì được bổ tri-phủ, 1.800 quan thì bổ tri-huyện[1].
Như thế, hễ ai có tiền là được quyền trị-dân, chứ không cần có tài năng gì cả, thành ra cái phẩm giá của những người làm quan đời bấy giờ cũng kém dần dần đi.
4. Việc binh-chế. — Khi nhà Lê trung hưng ra đánh họ Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà thôi[2]. Về
- ▲ Việc bán phẩm-hàm đã có từ đời vua Dụ-tôn nhà Trần và đời vua Thánh-tôn nhà Lê. Nhưng mà bấy giờ chỉ cho lấy hư hàm mà thôi, chứ không thực chức.
- ▲ Khi vua Lê Thái-tổ ra đánh nhà Minh thì số binh bấy giờ được 25 vạn, chia ra làm 5 quân, gọi là trung-quân, tiền-quân, hậu-quân, tả-quân, hữu-quân.
Đến khi đánh dẹp xong rồi, cho 15 vạn về làm ruộng, còn để lại 10 vạn chia làm 5 đạo, gọi là đông-đạo, tây-đạo, nam-đạo, bắc-đạo và hải tây-đạo.