Hoan 梅 文 歡 tính số vàng, bạc và tiền thu vào và phát ra mỗi năm là bao nhiêu.
Bấy giờ số tiền thì có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400 quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng thì có năm thu được 830 lượng, có năm được 890 lượng. Bạc thì thứ giáp-ngân 甲 銀 (?) có năm thu được 240 lượng, có năm được 390 lượng; thứ dung-ngân 榕 銀 (?) có năm được 2.400 lượng, có năm được 1.800 lượng; thứ kê-ngân 鷄 銀 (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có năm không có đồng nào.
Tính đổ đồng lại từ năm bính dần (1746) đến năm nhâm-thân (1752) nghĩa là trong 7 năm số vàng được 5.768 lượng, số giáp-ngân được 9.978 lượng, số dung-ngân được 14.276 lượng, số kê-ngân được 21 150 đồng.
Từ đó trở đi mỗi năm phải làm sổ kê rõ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng diêng năm sau dâng lên để chúa xem.
Những tiền tiêu ở trong nước, thì có tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ thái-bình 太平.
6. Lấy đất Chiêm-thành. — Trước Trịnh-Kiểm chỉ cho ông Nguyễn Hoàng vào trấn-thủ đất Thuận-hóa mà thôi, sau đến năm canh-ngọ (1570) họ Trịnh đòi quan trấn-thủ Quảng nam là Nguyễn-bá-Quýnh về trấn đất Nghệ-an, để đất Quảng-nam cho ông Nguyễn-Hoàng kiêm lĩnh.
Năm tân-hợi (1611) ông Nguyễn-Hoàng vào đánh nước Chiêm-thành lấy đất lập ra phủ Phú-yên; chia ra làm hai huyện là Đồng-xuân và Tuyên-hòa. Đến năm quí-tị (1653) vua nước Chiêm-thành là Bà-Bật 婆 沁 sang quấy nhiễu ở đất Phú-yên, chúa Hiền là Nguyễn-phúc-Tần 阮 福 瀕 mới sai quan cai-cơ là ngươi Hùng Lộc 雄 禄 sang đánh. Bà-Bật phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan-lang 潘 郎 江 trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan-lang trở ra lấy làm Thái-ninh-phủ, sau đổi làm phủ Diên-khánh