Bước tới nội dung

Trang:Viet Nam Su Luoc, Quyen 2, 1928.pdf/85

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 78 —

Trà-bát ở huyện ấy, tức là Cát-dinh 葛 營. Đến năm bính-dần (626) chúa Sãi là Nguyễn-phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc-an 福 安 (thuộc huyện Quảng điền, tỉnh Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.

Năm bính-tí (1636) chúa Thượng là ông Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim-long 金 龍, (thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên).

Năm đinh-mão (1687) chúa Nguyễn là ông Nguyễn-phúc-Trăn đem phủ về làng Phú-xuân 富 春, tức là đất Kinh-thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái-tôn-miếu, thờ chúa Hiền.

Năm giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.

1.  Chính dinh 正 營 (Phú-xuân)
2.  Cựu dinh 舊 營 (Ái-tử)
3.  Quảng-bình dinh 廣 平 營
4.  Vũ-xá dinh 武 舍 營
5.  Bố-chính dinh 布 政 營
6.  Quảng-nam dinh 廣 南 營
7.  Phú-yên dinh 富 安 營
8.  Bình-khang dinh 平 康 營 đất Chiêm-thành
9.  Bình-thuận dinh 平 順 營
10.  Trấn-biên dinh 鎭 邊 營
11.  Phiên-trấn dinh 藩 鎭 營 đất Chân lạp
12.  Long-hồ dinh 龍 湖 營

Dinh nào cũng đặt quan Trấn-thủ, quan Cai bạ, quan Ký-lục để coi việc cai-trị. Còn phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhân thì thuộc về tỉnh Quảng-nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ và quan Khám-lý để coi mọi việc. Đất Hà-tiên thì đặt là trấn, có quan đô-đốc cai-trị.

*

* *

Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa xứ Nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế-