Trà-bát ở huyện ấy, tức là Cát-dinh 葛 營. Đến năm bính-dần (626) chúa Sãi là Nguyễn-phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc-an 福 安 (thuộc huyện Quảng điền, tỉnh Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.
Năm bính-tí (1636) chúa Thượng là ông Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim-long 金 龍, (thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên).
Năm đinh-mão (1687) chúa Nguyễn là ông Nguyễn-phúc-Trăn đem phủ về làng Phú-xuân 富 春, tức là đất Kinh-thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái-tôn-miếu, thờ chúa Hiền.
Năm giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.
1. | Chính dinh 正 營 (Phú-xuân) | ||
2. | Cựu dinh 舊 營 (Ái-tử) | ||
3. | Quảng-bình dinh 廣 平 營 | ||
4. | Vũ-xá dinh 武 舍 營 | ||
5. | Bố-chính dinh 布 政 營 | ||
6. | Quảng-nam dinh 廣 南 營 | ||
7. | Phú-yên dinh 富 安 營 | ||
8. | Bình-khang dinh 平 康 營 | đất Chiêm-thành | |
9. | Bình-thuận dinh 平 順 營 | ||
10. | Trấn-biên dinh 鎭 邊 營 | ||
11. | Phiên-trấn dinh 藩 鎭 營 | đất Chân lạp | |
12. | Long-hồ dinh 龍 湖 營 |
Dinh nào cũng đặt quan Trấn-thủ, quan Cai bạ, quan Ký-lục để coi việc cai-trị. Còn phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhân thì thuộc về tỉnh Quảng-nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ và quan Khám-lý để coi mọi việc. Đất Hà-tiên thì đặt là trấn, có quan đô-đốc cai-trị.
*
* *
Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa xứ Nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế-