Truyền kỳ mạn lục/15

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Truyền kỳ mạn lục  (1547?)  của Nguyễn Dữ, do Ngô Văn Triện dịch
Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà-giang

CHUYỆN BỮA TIỆC ĐÊM Ở ĐÀ-GIANG


Năm Bính-dần (1386), vua Trần Phế-đế đi săn, đỗ lại trên bờ bắc sông Đà, đêm mở bữa tiệc ở trong trướng. Có một con cáo từ dưới chân núi đi về phía nam, gặp một con vượn già, nhân bảo:

— Vua tôi Xương-phù[1], vào rừng săn bắn, để ý vào bọn ta lắm đó. Tính-mệnh các loài chim muông, thật là treo ở sợi dây cung. Nếu tuyết chưa xuống, gió chậm về, mình sẽ nguy mất. Tôi định đến kiếm một lời nói để ngăn-cản, bác có vui lòng đi với tôi không?

Vượn già nói:

— Nếu bác có thể đem lời nói mà giải vây được, đó thật là một việc hay. Nhưng chỉ e nói-năng vô hiệu, họ lại sinh-nghi, trốn sao khỏi cái nạn thành cháy vạ lây, há chẳng nghe câu chuyện hoa-biểu hồ-tinh ngày trước[2].

Con cáo nói:

— Những người theo nhà vua đi săn, phần nhiều là võ-nhân, bụng không bác vật như Trương-Hoa[3], mắt không cao-kiến như Ôn-Kiệu[4], vậy chắc không việc gì mà sợ.

Bèn cùng nhau hóa làm hai người đàn-ông mà đi, một người xưng là tú-tài họ Viên[5], một người xưng là xử sĩ họ Hồ[6], đương đêm đến gõ cửa hành-cung, nhờ kẻ nội-thị chuyển đệ lời tâu vào rằng:

— Tôi nghe thánh-nhân trị-vì, càn-khôn trong sáng, minh-vương sửa đức, chim muông hòa vui. Nay chúa thượng đương kỳ thái hạnh, làm chủ dân vật, tưởng nên mở lưới vơ hiền, giăng chài vét sĩ, đương gội thì quấn mái tóc, lên xe thì dành bên tả[7], đem xe bồ ngựa tứ săn những người hiền trong chỗ quê lậu, lấy lễ hậu lời khiêm đón những kẻ-sĩ trong đám ẩn-dật, khiến trong triều nhiều bậc lương-tá để ban ân trạch cho sinh dân, đưa tất cả cuộc đời vào cõi nhân thọ. Cớ sao lại đi săn gấu bắt thỏ, tranh cả công việc của chức Sơn-ngu như vậy!

Bấy giờ vua say rượu đương muốn đi nằm, sai thủ-tướng Quý-Ly mời hai người vào tiếp-đãi, ở phía dưới thềm khách, và hiểu bảo cho biết săn bắn là phép-tắc đời xưa, sao lại nên bỏ.

Hồ nói:

— Đời xưa đuổi loài tê tượng là để trừ hại, mà mở cuộc sưu miêu[8] là để giảng võ. Chuyện đi săn ở Vị-dương, là vì một ông già không phải gấu cũng không phải hùm[9]. Vì sự phô-phang quân lính mới có cuộc săn ở Vu-nhâm[10]. Vì sự phô-phang cầm thú mới có cuộc bắn ở Trường-dương[11] Nay thì không thế: đương mùa hạ mà giở nhửng công việc khổ dân, không phải thời; giầy trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn, không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt, không phải lễ. Ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xe giá, để khiến người và vật đều được bình-yên!

Quý Ly nói:

— Không nên.

Hồ nói:

— Đó là tôi thương những giống chim hèn muông yếu mà nài xin cho chúng. Chứ còn những giống tinh-khôn nhanh-nhẹn thì tự nhiên chúng biết xa chạy cao bay đến đàng nam núi Nam, đàng bắc núi Bắc, há chịu trần trần một phận ấp cây đâu!

Quý Ly nói:

— Nhà vua đi chuyến nầy, không phải vì ham thích chim muông, chỉ vì nghe ở đây có giống hồ tinh nghìn tuổi, nên ngài muốn đại cữ đến để tiễu-trừ, khiến loài yêu gian không thể giở trò xằng-bậy được, có thế thôi.

Viên đưa mắt cho Hồ rồi mỉm cười. Quý Ly hỏi cớ, Hồ chợt đáp:

— Hiện giờ sài-lang đầy đường lấp lối, sao lại lo đi hỏi đền giống hồ ly?

Quý Ly nói:

— Ngài nói vậy là ý thế nào?

Hồ nói:

— Hiện nay thánh hóa chua khắp, bờ cõi chưa yên: Bồng-Nga[12] là con chó dại, cắn càn ở Nam-phương, Lý-Anh[13] là con hổ đói, gầm thét ở tây bắc, Ngô-Bệ[14] ngông-cuồng tuy đã tắt, Đường-lang[15] lấm-lét vẫn còn kia, sao không giương cái cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên-tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào-kiệt làm nanh-vuốt, lấy trung-tín làm giáp-trụ, cẩn-thận lông cũi để giá ngự những tướng khó trị, sửa chuốc cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng cũi giải về, khiến cho gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không làm, lại đi lẩn-quẩn ở công việc săn bắn, dù được chim muông như núi, chúng tôi cũng lấy làm không phục.

Quý Ly nghe lời; hai người mừng thầm nói:

— Thế là mưu kế có kết quả rối.

Nhân nâng chén rượu đầy lên uống rồi nói bàn vanh-vách, trôi như nước suối, không bị đuối một tý gì cả.

Quý Ly nói:

— Ta từng tranh-luận với người Tàu người Chiêm chưa hề chịu khuất lý bao giờ, thế mà nay phải lúng-túng với các gã nầy. Các gã nếu chẳng phải yêu núi ma rừng thì sao nói-năng được nhọn sắc như vậy!

Hai người giận mà nói:

— Ông là thủ-tướng đáng lẽ nên tiến-dẫn nhân vật để làm đồ dùng cho quốc-gia; cớ sao lại ghen người hiền, ghét người tài, há phải là cái nghĩa ở trong kinh Thư đã nói: «Kẻ khác có tài, coi như ta có ».

Quý Ly đổi nét mặt để xin lỗi và an-ủi rằng:

— Tôi nghĩ đương đời bây giờ, hiếm có được hạng người như là các ông. Sao các ông không đốt bỏ tơi nón, từ giã cá tôm, dướn mình con rồng ở Nam-dương, đuổi vó ngựa ký của Bàng Thống, lập công với đương thế, để tiếng về đời sau. Cớ chi lại đi nằm chết khô ở chốn hang núi, còn ai người biết đến nữa.

Hai người cười mà rằng:

— Chúng tôi nương mình bên cành khói, náu vết chốn hang mây, ngủ thì lấy cỏ làm đệm êm, khát thì lấy suối làm rượu ngọt, vương chân có hoa lá, kết bạn có hươu nai; chỉ biết ăn bách nhai tùng, ngâm trăng vịnh gió, ngõ hầu mới khỏi vướng lưới trần. Ai hơi đâu mà đi lo giúp việc đời dù là chỉ nhổ một sợi lông.

Nhân lại nói:

— Chúng tôi vốn là những người phóng lãng, không chịu ở trong vòng ràng buộc. Trước vẫn hay thơ, thường ngâm vang cả hang núi. Đêm nay bồi tiệc, há lại không có bài nào để kỷ thực ư?

Hồ bèn ngâm rằng:

飲 了 清 泉 又 碧 灘
Ẩm liễu thanh toàn hựu bích than
悠 悠 名 利 不 相 干
Du du danh-lợi bất tương-can
雲 邊 石 窟 跳 身 易
Vân biên thạch quật khiêu thân dị
世 上 塵 籠 著 踋 難
Thế thượng trần lung trước cước nan
日 落 眠 殘 山 峙 逈
Nhật lạc miên tàn sơn trĩ quýnh

更 䦨 咱 倦 夜 冰 寒
Canh lan thính quyện dạ băng hàn
煙 霞 此 去 無 蹤 跡
Yên hà thử khứ vô tung-tích
子 我 相 期 久 遠 看
Tử ngã tương kỳ cửu viễn khan.

Dịch:

Khe trong suối biếc nước ngon lành,
Đường thế chi màng đến lợi-danh.
Hang đá dễ nương mình phóng-khoáng,
Vòng trần khôn đặt bước chông-chênh.
Bóng tà giấc tỉnh trơ hình núi,
Băng lạnh đêm tàn cạn trống canh.
Mây khói rồi đây không dấu vết,
Đôi mình buộc chặt nghĩa non xanh.

Viên cũng ngâm rằng:

萬 壑 千 溪 有 徑 通
Vạn hác thiên khê hữu kính thông
悠 悠 拂 袖 任 西 東
Du du phất tụ nhiệm tây đông
興 來 逐 伴 春 山 雨
Hứng lai trục bạn xuân sơn vũ,
愁 去 分 携 別 浦 風
Sầu khứ phân huề biệt phố phong
湘 岸 無 聲 啼 落 日
Tương ngạn vô thanh đề lạc nhật
楚 天 有 淚 泣 彎 弓
Sở thiên hữu lệ khấp loan cung
我 投 林 木 君 巖 穴
Ngã đầu lâm mộc quân nham huyệt
堪 笑 求 安 計 不 同
Kham tiếu cầu an kế bất đồng.

Dịch:

Nghìn suối muôn khe có lối thông,
Mặc dầu tha-thẩn bước tây đông.
Tung-tăng lúc giỡn cơn mưa núi,
Đủng-đỉnh khi chờ ngọn gió sông,
Tiếng bặt bờ Tương gào bóng xế[16],
Lệ tràn đất Sở khóc dây cung[17].
Tôi lên rừng, bác vào hang núi,
Tìm chốn yên thân cũng một lòng.

Ngâm xong, từ-biệt ra đi. Quý Ly mật sai người rón bước theo sau, khi gần đến lưng chừng núi, thấy cả hai hóa làm con cáo và con vượn mà đi biệt mất.

Lời bình

Than ôi! trời đất sinh ra mọi loài mà riêng hậu đối với loài người, cho nên người ta là giống khôn thiêng hơn muôn vật. Tuy phượng-hoàng là giống chim thiêng, kỳ-lân là giống thú nhân, cũng chỉ là loài vật mà thôi. Cuộc nghị-luận ở Đà-giang, cớ sao loài người mà lại phải chịu thua loài vật? Cái đó là vì có duyên-cớ. Bởi Quý Ly tâm-thuật không chính, cho nên giống yêu-quái ở trong loài vật mới có thể đùa-cợt như vậy. Chứ nếu chính-trực như Ngụy Nguyên-Trung[18], trung như Trương Mậu-Tiên[19] thì chúng đã nghe giảng, giữ lửa không rồi, đâu còn dám tranh-biện gì nữa. Chao ôi! nước sông Thương-lương, trong thì để rửa mũ, đục thì để rửa chân, đều do tự mình cả đó thôi.

   




Chú thích

  1. Niên-hiệu của vua Trần Phế-đế, tức Đế Nghiễn.
  2. Đời vua Huệ-đế nhà Tần, ở mả vua Yên Chiêu-vương có con hồ-tinh già và một cây hoa-biểu (cây cột xây). Hồ-tinh một hôm muốn biến làm người học-trò, đến nghe Trương Hoa giảng sách, nhân hỏi cây hoa-biểu. Hoa-biểu nói: «Ông Trương là người trí-độ, khó che mắt được, đừng đi mà lại bị nhục, chẳng những hại anh mà lại lụy cả đến tôi nữa». Hồ không nghe, bèn hóa mình đến yết Trương Hoa, bàn-luận văn-chương sử-sách, thông hiểu suốt hết. Trương Hoa phải chịu và than rằng: «Thiên-hạ đâu lại có người tuổi trẻ thông-minh như thế; nếu không là ma-quỷ tất là hồ-ly». Sai người đề-phòng rất nghiêm-nhặt. Sau quan lệnh Phong-thành là Lôi Hoán xui Hoa thử huýt chó săn cho cắn xem sao, nhưng gã kia vẫn không sợ-hãi gì cả. Hoa giận nói: «Nó đích thực là yêu rồi, bây giờ chỉ hễ được cây khô nghìn năm mà soi thì hình nó sẽ hiện ra». Hoán nói: «Cây nghìn năm lấy đâu ra được. Người ta vẫn nói cây hoa-biểu ở trước mồ Chiêu-vương đã trải nghìn năm, nên thử dùng xem sao». Bèn sai người ngả cây ấy đốt ra để soi, gã kia liền hóa thành con hồ, nhân sai đem mổ giết.
  3. Trương Hoa người đất Phương-thành đời nhà Tấn học nhiều xem rộng, cái gì cũng biết, có làm ra sách Bác-vật-chi; người đời bấy giờ ví Hoa như Sản nước Trịnh đời xưa.
  4. Ôn Kiệu đời Tấn đi qua bến Ngưu-chử là chỗ nước sâu không thể lường được, và người ta vẫn đồn ở đấy có nhiều quái vật, Kiệu bèn đốt sừng tê để soi. Một lát, thấy các thủy-tộc hiện ra những kỳ hình dị trạng, hoặc đi xe cưỡi ngựa, hoặc mặc áo đỏ. Đêm ấy mộng thấy người đến bảo: chúng tôi với ông u-minh khác nẻo, việc gì mà ông lại đi soi chúng tôi!
  5. Viên là họ Viên, đồng âm với viên là con vượn.
  6. Hồ là họ Hồ. đồng âm vời hồ là con cáo.
  7. Chu-Công đương gội đầu, quấn tóc lại để tiếp người hiền. Ngụy công-tử đi xe, dành sẵn bên phía tả để đón bậc hiền-sĩ Hầu Doanh.
  8. Đời xưa bên Tàu cuộc săn mùa xuân gọi là sưu, cuộc săn mùa hạ gọi là miêu.
  9. Vua Văn-vương nhà Chu đi săn để đón ông già Lã Vọng.
  10. Vua Lỗ Chiêu-công.
  11. Vua Hán Bình-đế.
  12. Chế Bồng Nga, vua Chiêm-thành, hồi ấy thường vào quấy-nhiễu nước ta.
  13. Thuở ấy vua Minh sai chức Xá-nhân là Lý Anh xuống Vân-nam đòi mượn đường đi sang Chiêm-thành, yêu xách những voi ngựa lương thảo, bắt ta phải cung-đốn.
  14. Đời vua Trần Dụ-Tôn, người làng Trà-hương là Ngô Bệ họp đảng làm loạn, giữ núi Yên-phụ, dựng cây cờ lớn ở trên núi, tiếm vị xưng vương.
  15. Đời Trần Phế-đế, người lộ Bắc-giang là Nguyễn Bồ, xưng là Đường-lang tử-y, dùng pháp-thuật tiếm hiệu xưng vương làm loạn, rồi sau bị giết.
  16. Thơ vịnh loài vượn có câu: Đề thời mạc cận Tiêu-tương ngạn, minh nguyệt cô chu hữu lữ-nhân; nghĩa là lúc kêu chớ nên kêu gần bờ sông Tiêu-tương, vì trong chiếc thuyền trơ dưới bóng trăng trong có người lữ-khách, ý nói nếu kêu để người lữ-khách nghe tiếng, sẽ gợi cho người ấy nỗi buồn cố quốc tha hương.
  17. Sân triều nước Sở có con vượn trắng rất thiêng, người giỏi bắn đến đâu cũng không bắn trúng được. Vua Trang-vương sai nhà thiện xạ là Dưỡng Do-Cơ vừa xách cung mang tên ra, chưa bắn mà vượn đã ôm cây khóc, lúc bắn, vượn liền theo ngay mũi tên mà sa xuống.
  18. Ngụy Nguyên-Trung là người thẳng-thắn, thủa nhỏ nhà nghèo, chỉ nuôi một đứa ở gái. Một hôm đứa ở đương thổi cơm, bỏ chạy đi múc nước, về thấy một con vượn già đẩy bếp giữ lửa hộ. Con tinh vượn quý trọng Ngụy Nguyên-Trung như vậy.
  19. Tức Trương Hoa. Chuyện nghe giảng đã chua ở trên này.