Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ Thượng thư Ngô Tùng Châu
Than rằng:
1Đạo thần-tử hết lòng thờ chúa, gian-nan từng giãi dạ trung-thành; — đứng anh-hùng vì nước quyên-sinh, điên-bái chẳng sai lòng tiết nghĩa.
2Ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai; — trúc dẫu cháy, tiết ngay vẫn để.
Nhớ hai người xưa:
3Thao-lược ấy tài; — kinh-luân là chí.
4Phù vạc Hán thuở ngôi trời chếch-lệch, chém gai đuổi lũ hung-tàn; — với xe Đường khi thế nước chông-chênh, cầm bút ra tay kinh-tế.
5Mối nghĩa sánh duyên gác tía, bước gian-truân từng cậy dạ khuông-phù; — màn kinh giúp sức cung xanh, công mông dưỡng, đã đành lòng ủy-ký.
6Hậu-quân thuở trao quyền tứ-trụ, chữ ân uy lớn nhỏ đều phu; — Lễ-bộ phen làm việc chính-khanh, bề trung ái sớm khuya chẳng trễ.
7Ngoài cõi vuốt nanh ra sức, chí tiêm-cừu đành giãi xuống ba quân; — trong thành then khóa chia lo, lòng ưu quốc đã thấu lên chín bệ.
8Miền biên-khổn hai năm chia sức giặc, vững lòng tôi bao quản thế là nguy; — cõi Phú-xuân một trận khét uy trời, nặng việc nước phải lấy mình làm nhẹ.
9Sửa mũ áo lạy về bắc-khuyết, ngọn quang-minh hun mát tấm trung-can; — chỉ non sông giã với cô-thành, chén tân-khổ nhắp ngon mùi chính-khí.
10Há rằng ngại một phen thỉ-thạch, giải trùng vi mà tìm tới quân-vương; — bởi vì thương muôn mạng tì hưu, thà nhất tử để cho toàn tướng-sĩ.
11Tiếng hiệu-lệnh mơ-màng trước gió, ân tín xưa người bộ-khúc thương tâm; — bóng tinh-trung thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ kẻ liêu-bằng sái lệ.
12Cơ đãng-định kíp chầy đành hẹn buổi, xót tướng doanh sao vắng mặt thân huân; — phận truy-tùy gang tấc cũng đền công, tiếc nhung-mạc bỗng thiệt tay trung trí.
13Nay gặp tiết thu; — bày tuần úy-tế.
14Hai chữ cương-thường nghĩa nặng, rõ cổn-hoa cũng thỏa chốn u-minh; — nghìn thu hà-nhạc khí thiêng, giúp mao việt để mở nền bình-trị.
Thượng hưởng!

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1930, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.