Việt Nam phong tục/II.22

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

XXII.— HƯƠNG HỌC

Ta trước đây không có hương học, nhưng làng nào cũng có dăm ba trường học tư. Các trường học tư là của các thầy đồ, thầy khóa, và của các ông cử, ông tú ngồi nhà mở ra, gọi là trường tư thục.

Làng nào không có người văn học thì nhà hào trưởng hoặc người có của mời một người ở xa để dạy cho con học, hoặc là các thầy đồ kiết phương xa tìm chỗ dạy trẻ nương thân cũng gọi là trường tư thục.

Trẻ trong làng độ bảy, tám tuổi trở lên, cha mẹ đã cho đến các trường ấy mà học. Thoạt mới học, ông thầy cho học tam tự kinh, tứ tự kinh, v.v... mỗi ngày dăm ba câu, tập viết ván gỗ. Độ một vài tháng thì cho học một vài dòng chữ, tập viết tô. Một năm trở lên mới học đến Dương-tiết, Sử-thượng hoặc học chính văn kinh, truyện, tập viết phóng và cho tập làm câu đối bốn chữ, hạng ấy gọi là mông học.

Hai ba năm, viết thành chữ rồi, học đã biết suy nghĩ, thì cho học đến tứ thư, ngũ kinh, sử Hán, sử Đường, cho tập làm câu đối bảy chữ, gọi là câu đối thơ, tám chín chữ gọi là câu đối phú. Dần dần cho tập làm bài đoạn, đoạn nhỏ văn sách, bấy giờ gọi là ấu học.

Năm sáu năm trở lên trẻ đứa nào có khiếu thông minh mới cho học đến làm thơ, làm phú, làm kinh nghĩa, văn sách, và vẫn phải học kinh, truyện, sử, ôn đi ôn lại hai ba lần cho thuộc. Ít năm nữa thì cho rộng ra đến cổ văn, Đường thi, tính lý, chu lễ, bấy giờ mới gọi là hạng trung tập.

Trong làng có trường to gọi là trường của các ông tú, ông cử, ông nghè thì mới dạy đến hạng trung tập, còn trường ông đồ, ông khóa thì chỉ dạy hạng ấu học mà thôi. Trẻ con nào học thêm thì phải đến trường trung tập mới học được.

Học trung tập đã kha khá thì lên đến trường đại tập. Trường đại tập là trường của quan Đốc học hoặc ở xa tỉnh thì tập ở trường quan huấn, quan giáo. Hoặc ở trong làng có trường của ông nghè, ông cử mở ra thì cũng gọi là đại tập. Tập tràng ấy phần giảng sách thì ít, mà phần tập làm văn chương thì nhiều. Tập ở đấy giỏi rồi thì mới thi cử được.

Tập văn chương mỗi tháng có 4 kỳ, cho học trò đem về nhà mà làm, hạn cho năm, sáu hôm thì đem nộp, gọi là văn thường kỳ. Mỗi tháng lại phải có hai kỳ học trò phải hội lại một chỗ, hoặc tại nhà ông thầy hoặc tại nơi đình chùa, làm văn hạn cho trong một ngày phải xong, gọi là văn nhật khắc. Văn chương làm xong, nộp để ông thầy chấm quyển, hễ văn nào hay nhất thì thầy phê ưu hạng, hay vừa thì phê bình hạng, tầm thường thì phê thứ hạng, kém lắm thì phê liệt hạng, mỗi tháng cứ ngày mồng một, ngày rằm thì học trò hội cả lại nhà ông thầy bình văn, nghĩa là trong các quyển văn học trò, có quyển nào ưu bình thì thầy cho học trò ngâm nga cao tiếng lên, để cho ai nấy đều nghe mà bắt chước.

Mỗi năm có khoa thi thì học trò trong làng rủ nhau làm văn hội, mỗi tháng định mấy kỳ hội làm văn nhật khắc với nhau, rồi nhờ thầy chấm quyển hoặc nhờ người nào có danh giá chấm giùm. Quyển văn hội làm giả cách thi, cũng đóng dấu mặt dấu kiềm, dấu giáp phùng, dấu nhật trung, y như thể thức quyển thi. Văn nào hay cũng đem hội với nhau. Văn hội thường có treo giải thưởng, hễ ai ưu, bình thì được giải. Giải hoặc bằng giấy hoa tiên, hoặc bút mực, v.v...

Các làng mộ văn học, cứ mỗi năm hội hết học trò trong làng khảo một kỳ, gọi là khảo tiến ích. Dân làng bầu cử một vài ông khoa mục, xét xem ai học giỏi, ai học kém, hễ ai giỏi thì dân có thưởng. Lại có nơi tuần phu đi tuần trong làng, hễ ai có con đi học mà không nghe tiếng học đêm thì dân làng bắt phạt. Các cách ấy đều có ý cổ võ cho người ta phải chăm việc học hành.

Ít lâu nay, nhà nước xét ra cách học Hán tự của ta phần nhiều là hư văn, cải lương cách mới, đặt ra hương sư, tổng sư để thay cho các trường tư thục, thầy dạy phải có sư phạm, học trò phải theo quy trình mới, thì những tục cũ đã dần bỏ cả. Chỉ các nơi quê thôn xa, thỉnh thoảng vẫn còn ông đồ dạy tư, nhưng cũng cho trẻ con theo học tân thư, chớ không học như trước nữa.

*

* *

Các trường tư thục của ta, tức như trường mông học, ấu học của các nước. Duy cách dạy của ta khi trước thì không có quy củ nào, trẻ mới học vỡ lòng đã dạy ngay những câu nghĩa lý viển vông, nào sách một chữ, ba chữ, nào sách bốn chữ, năm chữ, chỉ quý hồ cho trẻ dễ thuộc lòng, chớ không cốt gì cho trẻ luyện tập cách suy nghĩ, cha mẹ thì cũng thấy con thuộc lòng đọc được bài học là hay, mà nhất là cho ông thầy dữ đòn mới là ông thầy chăm dạy, chớ thầy hay dở thế nào cũng không biết. Lớn lên ít tuổi, thì đã dần dần cho học văn chương, nào câu đối, nào thơ, nào phú, nào kinh nghĩa, nào tứ lục, nào văn sách, chẳng qua chỉ học những lối hư vănhọc chuyện nước người, đến những chuyện nước nhà cùng những điều thực dụng thì không dạy đến.

Cách học của ta chẳng nói thì bây giờ ai cũng biết là trái phép sư phạm. Tự lúc nhỏ cho đến lúc lớn, chẳng qua chỉ học trong hai khoa là luân lý với văn chương. Mà luân lý thì lại theo nghĩa hẹp hòi, bó mình vào trong lễ phép quá sức, làm cho người ta không thể theo được, văn chương thì cũng phù phiếm, người nước Nam mà bàn việc Nguyên, Minh, chuyện Đường, Tống, ngồi xó nhà mà tả những cảnh Hoàng Hà, Thái Sơn, thực là ngồi cầu Đơ mà nói quán Mọc. Văn chương như thế thì vẽ sao cho được cái chân cảnh của tạo hóa mà cảm động được lòng người.

Ngoài khoa văn chương luân lý thì không còn khoa gì nữa, thể thao chẳng có, kỹ nghệ cũng không. Ai học rộng ra đến thiên văn địa lý, y khoa lý số một đôi chút đã cho là vạn sự xuất ư nho, mà rút lại thì chẳng nghề gì là học cho đến nơi đến chốn. Học thuật của ta hủ bại như thế, trách nào mà tri thức của ta chẳng mờ mịt, văn minh của ta chẳng kém xa các nước.

Gần đây nhà nước đã cải định học qui, lấy chữ quốc ngữ làm đầu sự dạy trẻ ta, các ông thầy thì phải đủ cách phạm mới được dạy, điều ấy thực là có ích cho dân ta lắm.

Than ôi! Học là để mở trí khôn cho loài người mà chỗ hương thôn lại là gốc của xã hội. Cứ như lối học của ta thuở trước thì chẳng những là chậm đường tiến hóa cho dân, mà lại làm hại cho tính thông minh của người ta nữa. Vì nước ta cũng là một nước có sẵn tính thông minh dễ dạy, nghĩa lý dẫu cao xa đến đâu cũng có người hội được, kỹ nghệ dẫu khôn khó đến đâu cũng có người làm được. Giá thử dạy phải phép thì chẳng thiếu gì người thông minh tài trí, tưởng cũng có thể gây được tay triết học, tay bác vật, tay văn chương, tay kỹ xảo chẳng kém gì các nước là mấy.