Xa-cha-ri/1

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
(Đổi hướng từ Xa-cha-ri/Chương 1)
Xa-cha-ri của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 1

Các sự hiện-thấy
(Đoạn 1 đến 6)

Khuyên phải ăn-năn. — Sự hiện-thấy về ngựa và thợ rèn

11 Tháng tám năm thứ hai Đa-ri-út, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng đấng tiên-tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, mà rằng: 2 Đức Giê-hô-va đã rất không bằng lòng tổ-phụ các ngươi. 3 Vậy ngươi khá nói cùng chúng rằng: Đức Giê-hô-va vạn-quân phán như vầy: Hãy trở lại cùng ta, Đức Giê-hô-va vạn-quân phán, thì ta sẽ trở lại cùng các ngươi, Đức Giê-hô-va vạn-quân phán vậy.

4 Chớ như tổ-phụ các ngươi, các tiên-tri xưa kia đã kêu họ mà rằng: Đức Giê-hô-va vạn-quân phán như vầy: Bây giờ khá xây-bỏ đường dữ và việc làm dữ của các ngươi; nhưng họ chẳng nghe, chẳng hề để ý nghe ta, Đức Giê-hô-va phán vậy. 5 Chớ nào tổ-phụ các ngươi ở đâu? Và những tiên-tri ấy có sống đời đời chăng? 6 Song những lời phán và lệ-luật ta đã truyền cho tôi-tớ ta là các đấng tiên-tri, há chẳng kịp đến tổ-phụ các ngươi sao? Nên họ đã trở lại và nói rằng: Mọi đều mà Đức Giê-hô-va vạn-quân đã định làm cho chúng ta theo như đường-lối và việc làm của chúng ta, thì đã làm cho chúng ta như vậy.

7 Ngày hai mươi bốn tháng mười một, là tháng Sê-bát, trong năm thứ hai Đa-ri-út, có lời của Đức Giê-hô-va phán cho đấng tiên-tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, như vầy: 8 Ta thấy trong ban đêm: nầy, có một người cỡi ngựa hồng đứng trong những cây sim ở nơi thấp, và đằng sau người có những ngựa hồng, ngựa xám, ngựa trắng. 9 Ta nói rằng: Hỡi chúa tôi, những ngựa ấy nghĩa là gì? thì thiên-sứ nói cùng ta, bảo ta rằng: Ta sẽ chỉ cho ngươi những ngựa nầy nghĩa là gì. 10 Người đứng trong những cây sim đáp rằng: Đây là những kẻ mà Đức Giê-hô-va sai đi lại trải qua đất. 11 Chúng nó bèn đáp lại cùng thiên-sứ đứng trong những cây sim rằng: Chúng tôi đã đi lại trải qua đất; nầy, cả đất đều ở yên và im-lặng.

12 Bấy giờ thiên-sứ của Đức Giê-hô-va đáp rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va vạn-quân! Ngài sẽ không thương-xót Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa cho đến chừng nào, là những thành Ngài đã nổi giận nghịch cùng nó bảy mươi năm nay? 13 Đức Giê-hô-va lấy những lời lành, những lời yên-ủi đáp cùng thiên-sứ đương nói với ta.

14 Đoạn, thiên-sứ đương nói cùng ta, bảo ta rằng: Khá kêu lên và nói rằng: Đức Giê-hô-va vạn-quân có phán: Ta vì Giê-ru-sa-lem và Si-ôn động lòng ghen quá lắm; 15 và ta rất không đẹp lòng các dân-tộc đương yên-vui; vì ta hơi không bằng lòng, và chúng nó càng thêm sự khốn-nạn.

16 Vậy nên Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta lấy lòng thương-xót trở về cùng Giê-ru-sa-lem; nhà ta sẽ xây lại trong nó, dây mực sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-hô-va vạn-quân phán vậy. 17 Hãy kêu lần nữa mà rằng: Đức Giê-hô-va vạn-quân phán như vầy: Các thành ta sẽ còn đầy-tràn sự thịnh-vượng, Đức Giê-hô-va sẽ còn yên-ủi Si-ôn, và còn kén-chọn Giê-ru-sa-lem.

18 Đoạn, ta ngước mắt lên, ta nhìn-xem, nầy, có bốn cái sừng. 19 Ta bèn nói cùng thiên-sứ đương nói với ta rằng: Những vật ấy là gì? Người đáp cùng ta rằng: Ấy là những sừng đã làm tan-tác Giu-đa, Y-sơ-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem.

20 Đoạn, Đức Giê-hô-va cho ta xem bốn người thợ rèn; 21 thì ta hỏi rằng: Những kẻ nầy đến làm chi? Ngài đáp rằng: Ấy đó là những sừng đã làm tan-tác Giu-đa, cho đến nỗi không người nào ngóc đầu lên được; nhưng những kẻ nầy đã đến để làm kinh-hãi chúng nó, và để ném xuống những sừng của các nước đã cất sừng lên nghịch cùng đất Giu-đa đặng làm tan-tác nó.