Ai tư vãn

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Ai tư vãn - 哀思挽
của Lê Ngọc Hân

Ai tư vãn (哀思挽) là một tác phẩm trong văn chương Việt Nam, viết bằng chữ Nôm, tương truyền do Bắc Cung Hoàng hậu viết khóc chồng là vua Quang Trung.

1Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo.
Trước thềm lan hoa héo ron ron!
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non.
Xe rồng thăm thẳm bóng loan rầu rầu!
5Nỗi lai lịch dễ hầu than thở,
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao.
Sầu đầy dạt bể, thảm cao ngất trời
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc.
10Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu qui.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước,
Chữ “nghi gia” mừng được phải duyên.
15Sang yêu muôn đợi ơn trên.
Rỡ ràng vẻ thuý, chối chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
20Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là!
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
25Nhờ hồng phúc đôi cành hòe quế.
Đượm hơi dương, dây rễ đều tươi.
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng ca Thiên bảo, bày lời Hoa Phong.
Những ao ước trập trùng tuổi bạc,
30Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sóng cạn bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.
Từ nắng hạ mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
35Xiết bao kinh sợ lo phiền!
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay máy tạo bất bằng,
40Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuộc tụ tán, bi hoan kíp bấy?
Kể xum vầy đã mấy năm nay?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thần này nương đâu?
45Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai giập nỗi bi thương.
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng bàng hoàng như say.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng.
50Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu.
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng!
Khi bóng trăng lá in lấp lánh.
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
55Vội vàng dạo bước tới nơi.
Than ôi vắng vẻ, giữa trời sương sa.
Tưởng phong thái xót xa đòi đoạn.
Mặt rồng sao cách gián lâu nay.
Có ai chốn ấy về đây?
60Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành!
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả.
Nghĩ đòi phen nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn nguyền lửa hương.
65Nghe trước có đấng vương Thang, Võ
Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao.
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
70Công đức dầy, ngự vận càng lâu.
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa tưới khắp chín châu đượm nhuần.
Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
75Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Buồn thay nhẽ sương rơi, gió lọt!
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa.
Tưởng lời di ngữ thiết tha,
80Khóc nào lên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ xuân về, hoa ở!
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong.
Quyết liều mong vẹn chữ tòng.
Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e.
85Còn trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi.
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo.
Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
90Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân.
Theo xa thôi lại theo gần.
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh.
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao!
95Mơ màng thêm mỗi khát khao,
Ngọc Kinh chốn ấy ngày nào tới nơi ?
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai?
Xưa sao sớm hỏi, khuya bày,
100Nặng lòng vàng đá cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ?
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu.
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca.
105Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm lênh!
Nửa cung gẫy phím cầm lành.
Nỗi con côi cút nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
110Tiếng tử qui thêm giục lòng thương.
Não người thay cảnh tiên hương!
Dạ thường quanh quất mặt thường ngóng trông.
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây.
115Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà.
Trông nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc thời ngàn bạc màn sương!
Nọ trông trời đất bốn phương,
120Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung;
Này gương là của Hán Cung.
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
125Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ!
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu.
130Nỗi sinh cơ có thấu cho không ?
Cung xanh đang tuổi ấu sung,
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương ?
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm,
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai!
135U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào!
Trong sáu viện ố đào, ủ liễu,
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê.
Long đong xa cách hương quê,
140Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên!
Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ.
Cất chân tay thương khó xiết chi!
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.
145Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi!
Càng trông càng một xa vời
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi.
150Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
155Trông chim càng dễ đoạn trường,
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy,
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!
Phút giây bãi bể nương dâu,
160Cuộc đời là thế biết hầu này sao ?
Chữ tình nghĩa là trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống, còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau.
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.