Bước tới nội dung

Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu đính)/Hồi 34

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ BA MƯƠI TƯ

Sái phu nhân nấp nghe chuyện kín
Lưu Hoàng-thúc nhảy ngựa Đàn-khê.

Tào Tháo sai người đào được một con chim sẻ bằng đồng, bèn hỏi Tuân Du rằng:

- Điềm này là điềm gì?

Du thưa:

- Ngày xưa, mẹ vua Thuấn nằm mơ thấy con chim sẻ bằng ngọc bay vào bụng, sau sinh ra vua Thuấn. Nay thừa tướng được con sẻ bằng đồng cũng là điềm hay.

Tháo mừng lắm, sai làm một cái đài cao để kỷ niệm.

Ngay hôm ấy, bạt đất chặt cây, nung ngói đóng gạch, xây đài “Đồng tước”[1] ở trên bờ Chương-hà, chừng một năm mới xong.

Con thứ của Tào Tháo là Tào Thực bàn rằng:

- Muốn dựng đài cao hai tầng thì phải lập ra ba tòa: tòa giữa cao nhất, gọi là “Đồng tước”; tòa bên trái gọi là “Ngọc-long”; tòa bên phải gọi là “Kim-phượng”. Lại nên xây hai cái cầu vồng nối dài hai bên với đền giữa cho đẹp mắt.

Tháo nói:

- Ý kiến con ta hay lắm. Nay mai, đền này làm xong, sẽ là nơi di dưỡng tuổi già của ta!

Tào Thực. Tranh minh họa đời Thanh.

Nguyên Tào Tháo sinh được năm con, duy có Thực là thông minh, linh lợi, giỏi nghề văn chương. Tháo rất yêu mến, nên để Tào Thực và Tào Phi ở lại Nghiệp-quận trông coi việc xây đền; lại sai Trương Yên giữ Bắc-trại. Tháo dẫn năm mươi sáu vạn quân, gồm cả số quân của Viên Thiệu, về Hứa-đô; phong tặng cho các công thần; lại dâng biểu xin truy tặng Quách Gia làm Trinh-hầu và đem con trai Quách Gia tên là Dịch về nuôi ở trong phủ.

Tháo lại họp các mưu sĩ bàn việc kéo quân xuống miền nam đánh Lưu Biểu. Tuân Úc nói:

- Đại quân đi đánh miền bắc mới về, chưa nên huy động vội. Xin hãy đợi nửa năm, chuẩn bị đầy đủ lực lượng, chỉ một trận là dẹp xong Lưu Biểu và Tôn Quyền.

Tháo nghe lời, bèn chia quân ra các nơi đóng đồn, làm ruộng, đợi khi dùng đến.

Lại nói Huyền-đức từ khi sang Kinh-châu, được Lưu Biểu đãi rất hậu. Một hôm đương cùng nhau uống rượu, chợt có tin báo bọn hàng tướng là Trương Vũ, Trần Tôn ở Giang-hạ, âm mưu cướp bóc nhân dân làm phản.

Biểu giật mình, nói rằng:

- Hai thằng giặc này lại làm phản sẽ gây tai họa không nhỏ.

Huyền-đức thưa:

- Đại huynh không phải lo, Bị xin đi đánh.

Biểu mừng lắm, lập tức điểm cho ba vạn quân. Huyền-đức lĩnh mệnh đi ngay. Không mấy bữa, đến Giang-hạ.

Trương Vũ, Trần Tôn đem quân ra đón đánh. Huyền-đức cùng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân cưỡi ngựa ra cửa cờ. Trông thấy ngựa của Trương Vũ rất khỏe mạnh, Huyền-đức nói:

- Đây tất là ngựa thiên lý.

Nói chưa dứt lời. Triệu Vân vác giáo xông thẳng vào trận địa. Trương Vũ tế ngựa đón đánh, chưa được ba hợp, bị Triệu Vân đâm chết. Vân nắm ngay lấy dây cương dắt ngựa chạy về.

Trần Tôn trông thấy, đuổi cướp lại. Trương Phi quát to một tiếng, vác mâu ra đâm chết Trần Tôn. Quân địch tan vỡ. Huyền-đức chiêu dụ dư đảng, bình định xong vùng Giang-hạ, rồi kéo quân về.

Lưu Biểu ra tận ngoài thành đón tiếp, mở tiệc ăn mừng. Rượu đến nửa chừng, Biểu nói:

- Hiền đệ tài giỏi, Kinh-châu thực được nhờ cậy. Nhưng còn lo Nam-việt bất thần đến cướp; Tôn Quyền và Trương Lỗ cũng phải đề phòng.

Huyền-đức nói:

- Em có ba tướng có thể ủy thác được: Trương Phi đi tuần Nam-việt; Vân-trường giữ thành Cố-tử để trấn Trương Lỗ; Triệu Vân giữ Tam-giang cự với Tôn Quyền, như vậy còn lo gì nữa!

Biểu mừng, định nghe theo. Sái Mạo nói với chị là Sái phu nhân (vợ Lưu Biểu):

- Lưu Bị sai ba tướng giữ phía ngoài, còn hắn ở lại Kinh-châu, sau này sẽ gây tai họa cho ta.

Đến đêm, Sái phu nhân nói với Biểu:

- Tôi thấy ở Kinh-châu lắm người đi lại với Lưu Bị, phải nên đề phòng mới được. Nay để cho hắn ở trong thành cũng vô ích, sao bằng để cho hắn đi nơi khác.

Biểu nói:

- Huyền-đức là người nhân nghĩa đấy.

Sái phu nhân nói:

- Tôi chỉ sợ người ta chẳng được như bụng ông thôi.

Biểu lặng yên nghĩ ngợi không trả lời. Hôm sau, Lưu Biểu đi ra ngoài thành, trông thấy con ngựa của Huyền-đức cưỡi tốt lắm, hỏi ra, biết là ngựa của Trương Vũ. Biểu tấm tắc khen mãi. Huyền-đức đem biếu ngay. Biểu mừng lắm, cưỡi về.

Khoái Việt trông thấy, hỏi. Biểu nói:

- Của Huyền-đức cho.

Việt nói:

- Xưa nay anh tôi là Khoái Lương xem ngựa rất giỏi. Tôi cũng võ vẽ chút ít. Con ngựa này dưới mắt có “chỗ trũng chứa nước mắt”, cạnh trán lại có điểm trắng, gọi là giống ngựa “Đích lư”, dùng nó thì hại chủ. Trương Vũ cũng vì ngựa này mà chết, chúa công không nên cưỡi.

Biểu tin ngay. Hôm sau Biểu mời Huyền-đức đến ăn tiệc, nhân nói rằng:

- Hôm qua hiền đệ cho con ngựa tốt lắm, tôi xin cảm tạ; nhưng hiền đệ thỉnh thoảng phải đi chiến đấU, xin trao lại để hiền đệ dùng.

Huyền-đức đứng dậy tạ lại. Biểu nói tiếp:

- Hiền đệ ở lâu đây, sợ sao lãng việc võ. Nay có huyện Tân-dã thuộc ấp Tương-dương, đầy đủ lương thực, hiền đệ nên dẫn quân mã bản bộ ra đấy đóng đồn. Hiền đệ thấy thế nào?

Huyền-đức vâng theo, hôm sau vào từ biệt Lưu Biểu rồi dẫn quân bản bộ đến Tân-dã.

Vừa ra khỏi thành thấy một người đứng đón, vái rạp xuống tận đất, nói rằng:

- Con ngựa của ông, không nên cưỡi.

Huyền-đức nhìn ra là Y Tịch, mạc-tân Kinh-châu, tên tự Bá-cơ, quê ở Sơn-dương. Huyền-đức vội xuống ngựa hỏi. Tịch nói:

- Hôm trước, tôi nghe thấy Khoái Việt nói với Lưu Kinh-châu rằng ngựa này là giống “đích lư”, cưỡi thì hại chủ, nên Lưu Kinh-châu trả lại ông. Ông còn cưỡi làm gì?

Huyền-đức nói:

- Xin thành thật cảm ơn lòng tốt của ông. Nhưng người ta sống chết có mệnh, con ngựa hại thế nào được!

Tịch phục là cao kiến, từ đấy thường hay đi lại thăm hỏi.

Huyền-đức từ khi đến Tân-dã, quân dân đều vui mừng. Việc chính trị đổi mới hẳn.

Mùa xuân năm Kiến-an thứ mười hai (207), Cam phu nhân sinh được Lưu Thiện. Đêm hôm đó có một con hạc trắng, bay đến đậu trên nóc nhà, kêu to hơn bốn mươi tiếng, rồi bay về phía tây. Lúc trở dạ, mùi thơm tỏa khắp phòng. Cam phu nhân trước khi có mang, thường nằm chiêm bao thấy ngửa mặt lên trời nuốt sao bắc đẩu, nên đặt tên là A-đẩu.

Hồi ấy, Tào Tháo đang đem quân đi đánh phương bắc, Huyền-đức bèn đến Kinh Châu nói với Lưu Biểu:

- Nay Tào Tháo đem hết quân đánh phương bắc, Hứa-xương bỏ ngỏ. Nhân dịp này, ta đem quân Kinh, Tương đến đánh úp, nhất định sẽ thắng lợi.

Biểu nói:

- Ta ngồi giữ chín châu cũng đủ rồi, còn cần mưu đồ chi nữa?

Huyền-đức ngồi lặng yên.

Biểu mời vào nhà trong uống rượu. Rượu ngà ngà say, Biểu thở dài một tiếng. Huyền-đức hỏi:

- Huynh trưởng có việc chi mà thở dài?

Biểu nói:

- Ta có việc riêng khó nói ra lắm.

Huyền-đức đang định hỏi thêm, thì ngay lúc ấy Sái phu nhân bước ra nấp sau bình phong. Lưu Biểu cúi đầu không nói gì nữa. Một lát tiệc tan, Huyền-đức lại về Tân-dã.

Đến mùa đông năm ấy, nghe tin Tào Tháo tự Liễu-thành về, Huyền-đức rất tiếc Biểu không nghe lời mình.

Một hôm, Biểu sai sứ mời Huyền-đức đến Kinh-châu họp mặt. Huyền-đức theo sứ về. Lưu Biểu tiếp đón và mời vào nhà trong dự tiệc. Nhân bảo Huyền-đức rằng:

- Mới đây, nghe Tào Tháo trở về Hứa-đô, uy thế ngày càng mạnh, tất muốn thôn tính Kinh, Tương. Ta rất ăn năn trước kia không nghe lời hiền đệ, bỏ lỡ mất cơ hội tốt.

Huyền-đức nói:

- Thời buổi này, thiên hạ chia sẻ, chiến tranh nổ ra càng nhiều, cơ hội bao giờ hết được? Nếu biết ứng phó sau này thì cũng không đáng tiếc lắm.

Biểu nói:

- Lời hiền đệ thật chí lý!

Hai người cùng nhau chén tạc chén thù. Rượu say, Lưu Biểu tự nhiên ứa nước mắt. Huyền-đức hỏi vì cớ gì. Biểu nói:

- Ta có việc tâm sự, trước đây đã toan nói với hiền đệ, nhưng chưa thuận tiện.

Huyền-đức nói:

- Huynh trưởng có việc gì khó giải quyết? Nếu cần đến dù chết em cũng không từ.

Biểu nói:

- Con trưởng tôi là Kỳ, do vợ trước là Trần thị sinh ra. Nó hiền lành nhưng nhu nhược lắm, xem chừng không coi nổi việc nước. Con thứ tên là Tôn, vợ sau Sái thị sinh ra; thằng này tư chất thông minh hơn. Tôi có ý muốn bỏ trưởng lập thứ, nhưng lại sợ trái với lễ pháp; muốn lập con trưởng thì lại sợ tôn tộc họ Sái đều nắm binh quyền, sau tất sinh loạn. Do đó ta lo nghĩ mãi chưa quyết.

Huyền-đức nói:

- Xưa nay, bỏ con trưởng lập con thứ vẫn là rước lấy những chuyện rối ren. Nếu huynh trưởng lo họ Sái quyền to, thì nên dần dần tước bớt đi, chứ không nên quá yêu mà lập con thứ.

Biểu nín lặng.

Nguyên Sái phu nhân vẫn có ý nghi Huyền-đức. Hễ thấy Huyền-đức nói chuyện với chồng thì thế nào cũng rình nghe cho kỳ được. Lúc ấy, chính mụ nấp sau bình phong; nghe thấy Huyền-đức nói câu đó, mụ rất căm tức.

Huyền-đức biết mình lỡ lời, liền đứng dậy đi tiểu. Nhân đó trông xuống thấy thịt vế mập ra, tự nhiên thương cảm ứa nước mắt. Một lát Huyền-đức lại trở vào. Biểu thấy Huyền-đức nét mặt rầu rầu, ngạc nhiên hỏi làm sao. Huyền-đức thở dài nói:

- Từ trước đến nay, em không lúc nào rời yên ngựa, bắp thịt chân thường sắt lại; lâu nay không cưỡi ngựa, thịt lại đẫy ra; ngày tháng trôi qua, già đến nơi rồi mà chưa làm nên trò trống gì. Bởi thế nên em thương cảm mà khóc.

Biểu nói:

- Ta nghe trước kia hiền-đệ ở Hứa-xương, cùng Tào Tháo uống rượu nồng với mơ xanh mà bàn luận anh hùng. Hiền đệ kể hết tên các danh sĩ thời nay, nhưng Tháo không công nhận một ai, mà nói thẳng ngay rằng: “Thiên hạ anh hùng duy chỉ có sứ quân với Tháo”. Xem đó, quyền thế lừng lẫy như Tào Tháo, còn chửa dám nhận là hơn hiền đệ; hiền đệ lo gì không dựng nên nghiệp bá?

Huyền-đức đang lúc tửu hứng buột miệng đáp rằng:

- Nếu em có cơ sở, thì chẳng cần đếm xỉa gì đến những bọn tầm thường trong thiên hạ cả.

Biểu nghe nói ngồi lặng yên.

Huyền-đức biết mình lỡ lời, mượn cớ đứng dậy, về khách xá nghỉ.

Đời sau có thơ khen rằng:

Tào công tính đốt kể từng người
Thiên hạ anh hùng có Bị thôi
Thịt vế mọc đầy từng cảm thán
Chia ba thiên hạ tự đây rồi.

Lại nói Lưu Biểu nghe mấy lời của Huyền-đức miệng tuy không nói, lòng thực không vui, liền từ biệt Huyền-đức trở vào nhà trong.

Sái phu nhân nói:

- Mới rồi, ta ở sau bình phong, nghe thấy những lời Lưu Bị nói khinh người thậm tệ, đủ biết hắn có ý nuốt Kinh-châu. Nếu không trừ trước, ắt sinh hậu hoạn.

Biểu không nói, chỉ lắc đầu.

Sái thị triệu ngay Sái Mạo vào bàn việc ấy. Mạo nói:

- Chị để em ra ngoài quán dịch giết hắn, rồi sẽ báo với chúa công sau.

Sái thị đồng ý. Mạo liền ra điểm quân.

Lại nói, Huyền-đức ở trong quán dịch đốt đèn ngồi chơi. Độ cuối canh ba, sắp sửa đi ngủ, bỗng có một người đẩy cửa vào, trông ra là Y Tịch. Nguyên Tịch biết Sái Mạo định hại Huyền-đức, nên đang đêm đến báo tin giục Huyền-đức cấp tốc lánh đi. Huyền-đức nói:

- Chưa từ biệt Cảnh-thăng, đi sao cho tiện.

Tịch nói:

- Ông mà đến từ biệt tất bị Sái Mạo nó hại.

Huyền-đức tạ ơn Y Tịch rồi gọi ngay tùy tùng nhất tề lên ngựa, đang đêm chạy về Tân-dã.

Khi Sái Mạo đem quân đến, thì Huyền-đức đã đi xa rồi. Mạo tức lắm, làm ngay một bài thơ viết ở trên tường, rồi vào nói với Biểu:

- Lưu Bị có ý làm phản, nên đề một bài phản thi trên tường, không từ biệt mà đi ngay.

Biểu không tin, thân ra tận quán xá, quả nhiên thấy bốn câu thơ:

Khốn đốn lâu nay giữ phận hèn,
Ngồi buồn coi ngắm nước non quen.
Rồng đâu phải giống trong ao nhỏ,
Cưỡi sấm lên trời cũng có phen!

Lưu Biểu đọc xong giận lắm, tuốt gươm ra, nói:

- Ta thề giết chết bọn vô nghĩa này!

Đi được vài bước, lại sực nghĩ ra: “Ta cùng ở với Huyền-đức một thời gian dài, không thấy hắn làm thơ bao giờ. Đây tất là âm mưu chia rẽ của kẻ nào đây.”

Nghĩ xong lại trở vào, lấy mũi gươm cạo sạch bài thơ ở tường, vứt gươm rồi lên ngựa về.

Sái Mạo trình rằng:

- Quân sĩ đã điểm sẵn, xin cho đến Tân-dã bắt Lưu Bị.

Biểu nói:

- Không nên vội vàng, để ta nghĩ kỹ đã.

Sái Mạo thấy Lưu Biểu dùng dằng không quyết, bèn lẻn vào bàn với Sái thị:

- Nên mở ngay đại hội các quan ở Tương-dương, rồi nhân dịp giết ngay Lưu Bị ở đây.

Hôm sau, Mạo vào bẩm với Lưu Biểu:

- Mấy năm nay được mùa, nên họp các quan ở Tương-dương để tỏ sự săn sóc của chúa công. Xin mời chúa công đến dự.

Biểu nói:

- Ta mấy hôm nay có bệnh đau tức, không sao đi được. Nên mời hai công tử làm chủ để tiếp khách.

Mạo nói:

- Công tử còn ít tuổi lắm, sợ không quen lễ nghi.

Biểu nói:

- Thế thì sang Tân-dã mời Huyền-đức đến.

Sái Mạo thấy Biểu trúng mẹo mình, lập tức sai người đi mời Huyền-đức đến Tương-dương.

Huyền-đức từ khi chạy về Tân-dã, biết rằng mình lỡ lời rước vạ, chưa kịp nói chuyện với ai, thì chợt có sứ giả tới mời sang Tương-dương.

Tôn Càn nói:

- Hôm nọ thấy chúa công ở Kinh-châu về có dáng buồn. Tôi chắc bên ấy có xảy ra việc rủi ro gì. Nay tự dưng lại thấy mời chúa công đến hội, phải nên thận trọng.

Lúc ấy, Huyền-đức mới kể lại chuyện trước. Vân-trường nói:

- Từ khi xảy ra chuyện lỡ lời đến nay, Lưu Kinh-châu không hề trách móc gì hết, những tiếng đồn ngoài vội tin sao được. Vả Tương-dương cách đây không xa, nếu anh không đến họ sẽ sinh nghi.

Huyền-đức nói:

- Lời Vân-trường đúng lắm.

Trương Phi nói:

- Tiệc chẳng ra tiệc, hội chẳng ra hội. Thà đừng đi!

Triệu Vân nói:

- Tôi xin đem ba trăm quân mã đi theo, có thể bảo vệ chúa công vô sự.

Huyền-đức nói:

- Thế càng hay lắm!

Rồi cùng Triệu Vân ngay hôm ấy sang Tương-dương. Lưu Kỳ, Lưu Tôn dẫn văn võ bách quan ra đón. Sái Mạo cũng ra khỏi thành đón rất là kính cẩn. Huyền-đức thấy có cả hai công tử nên không nghi ngờ gì nữa.

Hôm ấy Huyền-đức tạm nghỉ ở quán xá, Triệu Vân dẫn ba trăm quân bảo vệ xung quanh. Vân mặc giáp, đeo gươm, không rời Huyền-đức nửa bước.

Lưu Kỳ thưa với Huyền-đức:

- Cha tôi bị bệnh đau tức, không thể đi lại được, nên sai mời chú sang tiếp khách và phủ dụ các quan thú mục các nơi.

Huyền-đức nói:

- Lẽ ra tôi không dám đảm nhiệm, nhưng anh đã sai không dám từ chối.

Hôm sau, người vào báo các quan chức trong chín quận, bốn mươi hai châu, đã đến đông đủ.

Sái Mạo mời Khoái Việt đến bàn:

- Huyền-đức là kẻ kiêu hùng đời nay, cho hắn ở lâu sau tất làm hại ta. Nên nhân hôm nay giết đi.

Việt nói:

- Sợ mất lòng dân.

Mạo nói:

- Ta đã vâng mật lệnh của chúa công rồi.

Việt nói:

- Có phải như thế thì nên chuẩn bị trước.

Mạo nói:

- Cửa đông, đại lộ Nghiễn-sơn, cửa nam, cửa bắc, đã có các em ta là Sái Hòa, Sái Trung, và Sái Huân canh giữ. Chỉ còn cửa tây không cần phải giữ, vì trước mặt có suối Đàn-khê chắn ngang, dù chục vạn quân cũng khó vượt qua được.

Việt nói:

- Tôi thấy Triệu Vân không rời Huyền-đức phút nào, sợ khó hạ thủ.

Mạo nói:

- Ta sẽ huy động năm trăm quân mai phục sẵn trong thành.

Việt nói:

- Nên sai Văn Sính, Vương Uy đặt một tiệc riêng ở ngoài sảnh chiêu đãi các võ tướng; hãy mời Triệu Vân ra trước rồi mới hành động được.

Mạo theo kế ấy.

Hôm đó, giết bò mổ ngựa, mở tiệc rất to. Huyền-đức cưỡi ngựa Đích-lư đến châu, sai dắt ngựa buộc trong vườn sau; các quan lại đã đông đủ ở công đường. Huyền-đức ngồi chủ trì giữa, hai công tử ngồi hai bên, còn quan lại cứ ngồi theo thứ tự.

Triệu Vân đeo gươm đứng cạnh Huyền-đức. Văn Sính, Vương Uy vào mời ra ngoài dự tiệc. Vân từ chối. Huyền-đức bảo Vân. Vân miễn cưỡng vâng theo.

Sái Mạo ở ngoài bố trí bao vây kín như rào sắt, rồi cho ba trăm quân của Huyền-đức lui về quán xá, chỉ đợi tiệc đến nửa chừng thì hạ thủ.

Rượu được ba tuần, Y Tịch đứng dậy cầm chén đến trước mặt Huyền-đức đưa mắt nói sẽ:

- Xin ông thay áo!

Huyền-đức biết ý, lập tức đứng dậy ra nhà tiêu. Y Tịch mời rượu xong, đi nhanh vào vườn sau, rỉ tai Huyền-đức nói:

- Sái Mạo bày kế hại ông. Ba mặt thành đều có quân mã canh giữ, chỉ còn cửa tây bỏ ngỏ, ông trốn ngay đi.

Huyền-đức sợ hãi, vội cởi ngựa Đích-lư, mở cửa vườn dắt ra, nhảy phắt lên yên, phi một mạch về phía cửa tây, không kịp hỏi đến bọn tùy tùng.

Lính gác hỏi, Huyền-đức không đáp, ra roi chạy miết. Lính gác ngăn lại không được, vội phi báo với Sái Mạo. Mạo lập tức đem năm trăm quân đuổi theo.

Lại nói Huyền-đức ra khỏi cửa tây, đi được vài dặm, trước mặt có một suối lớn chắn ngang. Suối Đàn-khê này rộng độ vài trượng, chảy ra Tương-giang rất mạnh, sóng gió hết sữ dữ dội. Huyền-đức đến sát bờ, thấy không thể qua được, gò ngựa trở lại, nhìn về phía tây thành, bụi bốc mù mịt, quân đuổi theo sắp đến nơi. Huyền-đức nói: “Phen này chắc chết!”, rồi quay ngựa lại bờ suối. Lúc ấy quân đuổi đã kéo đến nơi. Huyền-đức hoảng sợ, quất ngựa xuống suối. Đi được vài bước, ngựa ngã quỵ hai chân trước, ướt hết cả áo bào. Huyền-đức liền giơ roi hô lớn:

- Đích-lư! Đích-lư! Nay mi hại ta rồi!

Huyền-đức vừa dứt lời, con ngựa bỗng rún mình nhảy vọt cao ba trượng sang bờ phía tây. Huyền-đức như vừa bay bổng lên mây.

Về sau, Tô học sĩ (tức Tô Đông-pha) có làm một bài cổ phong vịnh việc ấy. Thơ rằng:

  Tuổi già vui cảnh xuân tàn
Ngẫu nhiên lần tới khe Đàn qua chơi
  Ngẩn ngơ dừng ngựa đứng coi
Bông hoa trước mặt tả tơi cánh hồng.
  Nhớ xưa vận Hán đã cùng,
Nào hùm đua sức, nào rồng chọi nanh.
  Tương-dương mở tiệc linh đình
Không may Huyền-đức thình lình gặp nguy!
  Cửa tây trốn nạn ra đi
Sau lưng đã thấy quân truy đến gần.
  Mông mênh mặt suối cách ngần
Nước sâu thăm thẳm muôn phần khó thay!
  Vó câu rẽ sóng như bay
Lưng trời gió cuốn một roi vẫy vùng...
  Tai nghe tiếng kỵ đè chừng
Hai rồng cất cánh giữa dòng bay lên.
  Rõ ràng chân chúa Tây Xuyên
Người này ngựa ấy phỉ nguyền vua tôi.
  Khe Đàn cuốn nước ra khơi,
Chúa hiền ngựa tốt nay thời ở đâu?
  Nhìn sông luống ngẩn ngơ sầu
Bóng chiều bảng lảng phơi đầu núi không...
  Tam phân một giấc mơ mòng
Chỉ còn vết tích ghi trong cõi đời.

Huyền-đức sang đến bờ bên kia, ngoảnh lại đã thấy Sái Mạo dẫn quân đến nơi, gọi to rằng:

- Sao sứ quân bỏ tiệc mà đi thế?

Huyền-đức đáp:

- Ta cùng ngươi không thù không oán, sao muốn hại ta?

Mạo nói:

- Tôi đâu có mưu ấy, sứ quân đừng tin lời người ta nói.

Huyền-đức thấy Mạo sửa soạn cung tên, liền quất ngựa chạy về phía tây nam. Mạo bảo với tả hữu rằng:

- Người ấy thật có thần giúp!

Mạo sắp sửa trở về thành thì thấy Triệu Vân đem ba trăm quân từ trong cửa tây ruổi tới.

Thế là:

Long câu cứu chủ vừa qua suối
Hổ tướng đem quân rắp báo thù

Chưa biết Sái Mạo phen này sống chết thế nào, xem hồi sau mới rõ.

  1. Đồng tước: chim sẻ bằng đồng.