Cổ xúy nguyên âm/Cuốn thứ nhì/IV-2

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
SÁCH VĂN HIỆP THÁI

CÂU HỎI

Vấn: Lấy chồng nho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen.

Truyện rằng: « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh-đồ ».

Kim khảo:[1] « Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm, » tằng kiến ư thiên-vạn nữ-nhi chi nghị[2]; bất-tri hà-sở-thủ ư anh-đồ,[3] nhi quyến-luyến nhược-thị rư?[4]

Thí vị trần chi, dĩ quan xuân-hoài tình-tự.[5]

Bài làm trả lời (Bảng-nhỡn Lê-quí-Đôn)

Em nghe rằng: Sen ngó đào tơ, may gặp hội hôn-nhân chi phải lứa; chả chim cơm trắng, vẫn là mong giải-cấu chi tốt đôi; chọn mặt gửi vàng, dẫu ý ai cũng vậy.

Nay nhân sách hỏi, mà lược bày ra:

Trộm nghĩ rằng: Rồng bay còn đợi đám mây, bắn bình Tước[6] phải đợi tay anh-hùng. Lấy chúng tôi chi má đỏ hồng-hồng, răng đen nhưng nhức, chẳng những muốn cô-tú, dì-nho chi dự[7] vẫn là mong chồng loan vợ phụng chi chung tình. Nếu mà cú đậu cành mai, thời công trang điểm chẳng hoài lắm ru? Vậy nên sớm gửi tơ duyên, ai là chẳng kén chọn ngọc đá, vàng thau, chi lừa lọc?

Nay xét phương-ngôn, chị em bạn gái nói truyện rằng: « Chẳng tham ruộng cả, ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh-đồ ».

Ý trộm nghĩ rằng: Ngọc còn đợi giá, vàng chẳng lộn thau; cây đỗ-quyên rèm sâu, quyết chẳng nỡ mang làm cọc giậu. Ả Hằng-nga cung cấm, hẳn không thèm bạn với lái buôn; cam-đường với quả quít-hôi, cũng cân nhắc ư ba đồng một, một đồng đôi chi giá.

Thử ngó coi: Ruộng sâu ao cá, chàng nông kia chi trọc-phú những khoe giàu; song Vương-Khải Thạch-Sùng đã từng đấu-phú, rồi cũng giương mắt ếch ư của-đời người-thế chi thu.[8]

Nghiên ruộng bút cày, anh đồ nọ chi đa-văn[9] không ngại khó; kìa Mãi-Thần, Mông-Chính có lẽ tràng bần? rồi cũng bổng cánh hồng ư bĩ-cực thái lai chi hội.

Nông nhì, sĩ nhứt, lẽ ấy đã đành.

Vả: Chân lấm tay bùn, chàng nông nãi vũ-phu chi cục-kịch, lấy yếm-thắm dải-đào chi tha-thướt, giá thể mà mang bầu, xách lọ[10], sao cho cam hạt ngọc để Ngâu vầy.

Miệng vàng dạ gấm, anh đồ là quân-tử chi dịu-dàng, lấy môi-son má-phấn chi nhởn-nhơ, giá thể mà sửa túi nâng khăn,[11] thì mới đáng cành ngô cho phụng đậu.

Vậy có thơ rằng:

Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng,
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.

Lại có thơ rằng:

Gươm trời chi để tay phàm tuốt,
Búa nguyệt sao cho đứa độc mài.

Vả: Tiếng-tăm con gái, nết-na học trò, nên em nghĩ duyên em nữa, em nghĩ tình em nữa, lại tưởng đến anh-đồ chi sự-nghiệp: Đèn xanh một ngọn, án-tuyết ân-cần; quyển vàng mấy con, cửa huỳnh gióng-giả.

Còn trong trần-lụy, anh-đồ là vị-vũ chi giao-long,[12] may khoa thi mà kim-bảng đề-danh, tức[13] hôm nọ chi hàn-nho, mà hôm nay đã Bảng-nhỡn, Thám-hoa chi đài-các; em phỏng có duyên ưa lá-thắm, thời trước voi anh, sau võng thiếp, cũng thoả đời ư võng lọng chi nghênh-ngang!

Đương thủa hàn-vi, anh-đồ là tại-sơn chi hổ báo,[14] gặp vận thái mà thanh-vân đắc-lộ, tức bữa tê chi tiện-sĩ, mà bữa ni đã Thượng-thư, Đô-đốc chi phong-lưu; em phỏng như phận đẹp chỉ-hồng, thì anh quan-cả, thiếp hầu-bà, cũng sướng kiếp ư ngựa xe chi đủng-đỉnh!

Huống chi: Kinh-sử lầu thông, anh-đồ chi tài-học, đã sẵn tay kinh-tế; tuy có dài lưng tốn vải, bấy giờ đà đai-vàng áo-gấm chi bảnh-bao.

Tài-năng rất mực, anh-đồ chi duyên-phận, gặp được lúc long-vân; tuy có ăn no lại nằm, bấy giờ đã cơm-chúa võng-đào chi chểnh-chện.

Gương trời vằng-vặc, sáng soi nhà-vàng gác-tía chi linh-lung.

Lộc nước miên-miên, súc tích gấm-cuộn, vàng-cân chi ban-cấp.

Như thế thì: Chồng quan sang, vợ hầu đẹp, ai chẳng khen nhứt-thế chi thần-tiên; danh-phận cả, bổng-lộc nhiều, thế mới thoả tam-sinh chi hương-hỏa. Khởi-vô-sở-thủ ư anh-đồ tai?[15]

Vậy nên: Yếm trắng nước hồ, vã đi vã lại,[16] chỉ mong anh nho-sĩ chi yêu-đương. Miệng ong, lưỡi én, uốn ngược uốn xuôi, cũng mặc giọng thế-gian chị mai-mỉa.

Em nay: Tuổi mới trăng tròn, tiết vừa hoa nở, vâng lời sách hỏi, giãi hết niềm đơn,

Em cẩn thưa.

CÂU HỎI

Vấn: « Có chồng thương kẻ nằm không một mình, » ngạn hữu thị-ngôn giã.[17]

Nãi:[18]Ả Mận, ả Đào chi đún-đởn, ông rung gối hĩ[19]; bà hà-dĩ-hữu[20] trừng mắt chi nom?

Dì Lan, dì Huệ chi nhởn-nhơ, ông gật đầu hĩ; bà hà-dĩ-hữu ngứa-mồm chi nói? Tắc-sở-vị; (Thương) giả,[21] ư-hà kiến đắc?[22]

Bài làm trả lời (Thất danh)

Thiết vị: Phận mình màn thắm gối đôi, mình vui lại tẻ cho người nằm không.

Tượng:[23] Gái có chồng như rồng có mây, gái không chồng như cối xoay không ngõng; nào những lúc đèn khuya giong bóng, thôi tình kia thời nông-nỗi nọ, tấm lòng riêng biết ngỏ cùng ai; chẳng thà tàu chuối đủ đôi, còn hơn chiếu miến lẻ loi một phòng; có chồng thương kẻ không chồng, tin cũng như « thóc bồ thương kẻ ăn đong » vậy.

Nhời ngạn ấy, đàn bà ai chẳng biết, có lẽ rằng miệng ca tay đàn lỗi, chẳng hay sao?

Bỉ:[24] Ả Mận, ả Đào, tuổi chừng đôi tám, cũng phận gái mà trao tơ chưa phải lứa, nghĩ cũng buồn thay! Một mai chi đún-kởn ra vào; ông ưa, bà lại lòng nào chẳng ưa? Song nghĩ rằng: Có giận ta mới sai tới nó, có hờn ta mới ngó tới ai; vậy nên liếc ngược liếc xuôi, cố tình chọc tức; rồi kệ nó chi dục-hà dục-hĩ; muốn rung gối cho trồn chân mỏi gối; mà chửa chồng dia, cũng được chung chăn-êm gối-ấm chi vui. Chửa bàn[25] khi cười trăng cợt gió, ngảnh mặt làm thinh; nhưng hãy xem trừng-mắt chi nom, đã biết rằng vì xót mượn thương vay, mà chẳng nỡ sấp mặt bước qua vậy.

Dì Lan, dì Huệ, tuổi chạc hai mươi, cũng đời người mà nhờ dịp chửa đáng nơi, nghĩ đà ngán ngẩm! Một sớm chi nhởn-nhơ chải-chuốt; ông thuận, bà lại há rằng chẳng thuận? Song nghĩ rằng: Chiều chồng, chồng cũng chiều ta; giận chồng, chồng cũng ở ra hai lòng; vậy nên tiếng chì tiếng bấc, rước lấy giận hờn; rồi kệ ai chi tha-thích tha-hồ; đã gật đầu cho cúi-cổ mỏi đầu; mà chửa chồng ấy, cũng được khỏi gối-chiếc chăn-đơn chi lạnh. Chửa bàn khi díu nguyệt trêu hoa, bưng tai giả ngủ; nhưng hãy xem ngứa-mồm chi nói, đã biết rằng vì yêu-chung thương-lẫn, mà chịu tiếng bĩu môi chọc tức vậy.

CÂU HỎI

Đánh trống nhi ong đốt; ngủ mẹ nhi chuột tha; kỳ cố hà rư?[26] (Bài này ra ngắn làm theo lối tiểu-đoạn hai vế đối nhau)

Bài làm trả lời

Mồng một ngày rằm, đương cơn nhẩy nhót, bà cốt dựa bóng đức chầu. Nhứt[27] dịp trống chi rục-kỳ-rùng, nguyên-dĩ[28] xui anh bầu, anh vẽ chi vo-ve, tức ngứa nọc giả, ư-thị-hồ nhói![29]

Mười ba mười bảy, đương độ hớ hênh, con gái cạy nằm có mẹ. Nhút lá cờ chi toang-kỳ-toác;[30] nguyên-dĩ giục anh cống, anh leo chi ngấp-nghé, tức máy mép giả, ư-thị-hồ tha!


  1. Là: Nay xét.
  2. Là: Từng thấy muôn nghìn người con-gái chê anh học-trò như vậy.
  3. Là: Không biết chuộng anh đồ về nỗi gì?
  4. Là: Mà quyến-luyến như thế rư?
  5. Là: Thử bày tỏ ra, để xem lòng xuân tình tự.
  6. Tước là con công. Họ Đậu có người con gái đẹp, muốn kén rể, mới vẽ con công vào bình-phong, bảo rằng ai bắn tin mắt con công thì gả cho. Sau ông Lý-Uyên bắn tin lấy được người con gái ấy.
  7. Dự nghĩa là tiếng khen.
  8. Thu nghĩa là lúc.
  9. Có chữ: « Đa văn vi phú » nghĩa là học được nhiều chữ là giàu.
  10. Có bản là: Quăng chiêng ném trống.
  11. Có bản là: Kết tóc xe tơ.
  12. Là ví như con giao-long chưa gặp mưa.
  13. Cũng như tiếng tức thì.
  14. Là ví như con ho báo còn ở núi.
  15. Há không chuộng được anh đồ về nỗi gì hay sao? Đó là câu nói trả lời lại đầu đề.
  16. Ngạn-ngữ: Yếm trắng mà vã nước hồ, vã đi, vã lại anh đồ yêu đương.
  17. Là ngạn-ngữ có nhời nói ấy vậy.
  18. Nghĩa là hèn, là chữ xuống câu nói bẻ lại, cũng như tiếng thế mà.
  19. Là vậy, là chữ đậu cuối câu.
  20. Là: sao lại có.
  21. Là: thời bảo rằng thương ấy.
  22. Là: nào thấy đâu nào?
  23. Cũng như tiếng bởi vì. Bởi nghĩa chữ « cái 蓋 » mà dịch ra.
  24. Nghĩa là kìa như.
  25. Là chưa kể chi những việc đó.
  26. Ngạn-ngữ: Bà cốt đánh trống long tong, nhẩy lên nhẩy xuống cái ong đốt.... Con gái mười bảy mười ba, đêm nằm với mẹ chuột tha mất.... Hai câu đó là cớ thế nào?
  27. Là chữ bẻ xuống đầu câu, nghĩa như là chợt một lúc. Câu này có bản là: « nhất trống bộ chi long tong »
  28. Nghĩa là nguyên đã.
  29. Tức nghĩa là tức thì; giả là ấy, là chữ thay vì trỏ vào con ong hay con chuột; ư-thị-hồ nghĩa là chưng ấy vậy, là vì chưng thế mới nhói, mới tha; đó là những chữ thép văn sách.
  30. Có bản là: « nhứt cờ đào chi phất phới ».