Nhị độ mai/III

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nhị độ mai của không rõ
III. Họ Trần bị hại: Mai Lương Ngọc và Trần Xuân Sinh gặp cảnh lưu ly

Ông tơ khen khéo cợt người,
880Đã xe vào, lại thử rời bắc, nam.
Làm cho chí tái chí tam,
Rồi ra đố lại vào ngàm mới thôi.
Phủ Trần chưa hết chuyện vui,
Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan-hoài.
Đảng-công, Lư Kỷ ngồi ngoài,
Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần-gia.
Đọc rồi mới biết rằng là:
Biên-quan có nước Sa-đà động binh.
Khói lang, bụi ngựa tung-hoành.
890Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần.
Lư-công dâng chước hòa thân,
Truyền đòi con gái họ Trần kết thân,
Ban cho áo mũ Chiêu Quân,
Đảng-công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài.
Nghe ra xiết nỗi bồi hồi,
Ấy ai mưu hiểm, giục người sinh-ly ?
Khởi hành đã định nhật kỳ,
Lư-công giục-giã ngận tùy quân sai.
Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,
900Ngứa gan tấm-tức mấy lời vân vân:
"Vẻ chi một chút Hồ trần,
Những tài thao-lược, kinh luân đâu nào ?
Dẹp yên mượn sức má đào,
Khen ai đặt để cái mưu cũng gìa !
Kiếp này không xé được da.
Kiếp sau quả-báo, oan gia kẻo gì.
Gớm tuồng mộc vị, thần vì,
Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng."
Lư-công nghe nói ngang tàng,
910Mắt sòng-sọc khóe, mặt sường-sượng gân.
Tiền-đường dọn tiệc chủ, tân,
Đảng-công cất lẻn vào dần nhà trong.
Trần-công rỉ bảo Đảng-công,
Trỏ Mai-sinh mới giãi lòng một hai.
Rằng: "Này công-tử họ Mai,
Trong khi hoạn-nạn lạc-loài đến đây.
Em cho nương-náu những ngày,
Rắp đem tiểu-nữ sum-vầy kết duyên,
Mưu kia ai vẽ cho nên,
920Để loan chếch bóng cho uyên chia hàng.
Việc nhà nhờ bác sửa-sang,
Cho cùng Trần-điệt lên đường xuất quan."
Thoắt thôi nghe có lệnh troàn:
Bốn mươi thị-nữ dân-gian kén rồi.
Trong danh-sách bấy nhiêu người,
Cùng ra Phiên-quốc theo đòi Hạnh Nguyên.
Lại truyền không được trì diên,
Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường,
Áo Hồ đưa lại một rương,
930Dạy cho nương-tử cải-trang xuất hành.
Nàng rằng: "Quân-mệnh đã đành,
Tủi mình khuê-khổn, liều mình tinh-triên.
Bao giờ khỏi đất Trung-nguyên,
Bấy giờ thay áo Hồ-phiên vội gì.
Chịu trời chăng ! Một chữ thì,
Áo này dù đổi, lòng kia khôn dời !”
Đảng-công khen đã nên lời,
Cứng lòng, thiết-thạch hổ người tu-mi.
Thẹn thay cho kẻ vô-nghì.
940Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.
Lời trung khêu ruột gian-thần,
Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình.
Ngoài thì quan-khách linh-đình,
Trong thì nàng cũng đau tình biệt-ly.
Lạy hai thân, kể mọi bề,
Châu-chan nét liễu, dầm-dề giọt mai.
Rằng: "Con chút phận nữ-hài,
Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên.
Môn-mi mong những nhờ duyên,
950Ngỡ đem tấc cỏ báo dền ba xuân.
Hiểm thay chước kẻ gian-thần,
Xui nên kẻ Tấn, người Tần như không.
Có ra chi, phận má hồng,
Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù.
Rồi đây muôn dặm đất Hồ,
Biết câu thập nữ viết vô từ rày.
Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,
Liều bằng muôn một những ngày một hai."
Thoắt thôi sùi-sụt ngắn dài,
960Gập-ghềnh mới ngụ một bài biệt thi.
Giờ lâu lưỡng lự vân vi,
Gọi Xuân-sinh lại nằn-nì rỉ tai :
"Nặng vì chút nghĩa họ Mai,
Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong.
Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
Nhân-duyên chưa ghép, chữ đồng đã in.
Vả xem bậc ấy không hèn,
Rõ gương khoa-giáp, rõ niềm tướng-khanh.
Nhờ em đãi lấy lòng thành,
970Ngoài tình bầu-bạn, trong tình anh em.
Mọi bề trong ấm ngoài êm,
Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng.
Chị nhờ em gánh hiếu-trung,
Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già.
Công-danh tuổi ấy đương vừa,
Trâm-anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây.
Dù thương đến chị sau này,
Hoặc tuần hàn-thực, hoặc ngày thanh-minh.
Suối vàng rưới một giọt tình
980Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là !"
Lôi-thôi xiết nỗi gần xa,
Trông Mai công-tử dường đưa mối sầu.
Thẹn-thùng khôn nói-năng đâu,
Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng.
Cửa ngoài chực sẵn xe hương,
Lư-công giục-giã lên đường xuất quan.
Kiệu-phu bước nhặt, bước khoan,
Đảng-công một ngựa điệu đoàn vệ-binh.
Đoản-đình thôi lại tràng-đình,
990Bên xe Mai Bích, Xuân-sinh hai chàng.
Bắc, Nam ai kéo đôi đàng,
Ải-quan ai khéo chia đường biệt-ly.
Khi sao cửa các phòng khuê,
Giờ sao thui-thủi một xe đất này.
Hồn mai tỉnh tỉnh say say.
Mới trong vài bữa xem rày mấy niên.
Trông xa, khi khoác rèm lên,
Vòng thành chất-ngất, tòa đền trai lơi.
Kiệu-phu quì bẩm mấy lời :
1000"Hàm-đan huyện ấy có nơi trùng-đài."
Nàng truyền đóng lại nghỉ-ngơi,
Lên đền dạo cảnh, xem chơi gọi là.
Huyện-thành sắm-sửa gần xa,
Đài vừa dọn sạch, nàng vừa xuống xe.
Hương-đăng vừa đủ lễ-nghi,
Tiện, nàng lên đấy lạy về gia-hương.
Quan quân đóng chật huyện-đường,
Một nàng Hạnh với hai chường cùng lên.
Từng từng đợt dưới, đợt trên,
1010Ngẫm xem phong-cảnh bốn bên trập-trùng,
Cao cao thôi lại từng từng,
Trời như khổ thấp, đất bằng dường xa,
Bảo nhau rồi mới nhận ra,
Đông-nam phương ấy, ấy là cố-hương.
Xuân-sinh đón biết ý nường,
Muốn điều từ-biệt với chường Mai-sinh.
Một mình bước xuống làm thinh,
Mặc ai trên ấy tự tình với ai.
Trông chàng nàng mới rỉ tai:
1020"Trăm năm ghi tạc một lời từ đây.
Bao nhiêu tình-tự xưa nay,
Tóc tơ giãi một chốn này là thôi!"
Mai-sinh nhân lúc vắng người.
Gạt ngang nước mắt, bày lời trước sau:
"Nói càng như gợi cơn sầu,
Trách vì phúc bạc xứng đâu má đào.
Tấc lòng thề với trời cao,
Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây.
1030Sẵn ngôi phi-hậu dành ngày vinh-hoa.
Riêng ai trách lẫn trời già,
Xe tơ sao khéo hững-hờ cợt ai."
Nàng rằng: "Lời dạy dường sai,
Tấm thân đã phó cửa Mai những ngày.
Sông dù cạn núi dù lay,
Đã liền xương trắng dám thay lòng vàng.
Đem thân đối với cương-thường.
Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời.
Mình nào sánh với tanh-hôi?
1040Mặt nào còn đứng cõi đời được ru!
Khuyên chàng ghi nghĩa xuân-thu,
Mối tình hãy gác, nỗi thù chớ quên.
Cùng em cho tiện sách đèn,
Công-danh gặp hội thanh-niên đương vừa,
Một mai lộc nước phấn vua,
Danh mình cũng rạng, thù nhà cũng xong.
Thân ai đành trọn chữ tòng,
Suối vàng tươi mát, má hồng lây thơm.
Rồi đây kẻ bắc, người nam,
1050Cành thoa xin tặng để làm của tin.
Vật thường gọi chút làm duyên!"
Luật Đường mới ngụ một thiên giãi-bày.
Trùng-đài còn nhớ là đây,
Giã nhau gọi nhớ đến ngày biệt-ly.
Mai-sinh đôi giọt dầm-dề,
Thoa thì chịu lấy, thơ thì họa theo.
Bâng-khuâng lời ít tình nhiều,
Thị-tì đâu đã dập-dìu kéo lên.
Cùng nhau lạy trước đài tiền,
1060Lần thang bước xuống, giục liền gióng xe.
Gia-hương tình nặng bề-bề,
Ải-quan đâu đã gần kề tới nơi.
Tổng-binh sửa chốn nghỉ ngơi,
Đảng-công đã dạy cho mời cải-trang.
Ngắm mình ra vẻ Man-phương,
Xiêm tơi-tả bức, áo lang-lổ mùi.
Lông cài trên mũ một đôi,
Đổi hình khuê-nữ ra người Yên-chi.
Ngựa đâu kéo đến tức thì,
1070Mai-sinh gần đấy phù trì lên yên.
Hình-dung ai vẽ cho nên,
Hương xa đã đổi mã yên bao giờ.
Hai chàng cảm nỗi gần xa,
Đều cùng đọc một câu thơ tiễn-hành.
Lên yên nàng cũng gửi tình,
Đọc rồi mới giục hai sinh trở về.
Ngại-ngùng thay, lúc phân kỳ,
Người về cố-quốc, kẻ đi sa-trường.
Người đồng thất, kẻ tha-phương,
Hàng châu sùi-sụt, bước đường chia đôi.
Nàng còn dặn với mấy lời:
1080"Thù kia chớ để đội trời ở chung.
Sao cho tâm-lực hiệp đồng,
Mổ gan nghịch-tặc, thỏa lòng nữ-nhi".
Xót người tú các hương khuê,
Mối tình ly-biệt, đường đi phong-trần.
Lạ tai mấy tiếng man-nhân,
Giọng xa ríu-rít giọng gần ét-eo.
Bên trời phong-cảnh đìu-hiu,
Sương soi cỏ áy, gió reo cây già.
Sắc quân hiệu-lệnh càng gia,
1090Tiếng còi lư-diệp, lá cờ ngô-công.
Bước đường ngày một lạ-lùng,
Tiểu-thư ngày một đau lòng biệt-ly.
Quen tài tức cảnh vịnh đề,
Trên yên mới vịnh cổ thi một bài.
Ngựa giong mấy lớp dặm khơi,
Núi cao đã thấy gần nơi điện tiền.
Thổ-binh quỳ trước thưa lên:
Núi Hà-lan ấy có đền Tô-quân,
Bước vào xem tượng truyền-thần,
1100Mặt tròn khuôn nguyệt, môi nhuần vẻ đan.
Tấc lòng kính kẻ trung-can,
Liền tay vịnh miếu, vịnh sơn hai bài.
Lần lần gió tối sương mai,
Đường đi thoắt đã tới nơi đại hà.
Hỏi ra mới biết rằng là,
Ấy sông Hắc-thủy mộ bà Chiêu Quân.
Nàng bèn truyền gọi thổ-nhân,
Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.
Yên xong mới bảo thị-tỳ,
1110Đã thay Hồ-phục để chi áo này.
Ném theo một khúc sông đầy,
Hoa trôi mặt nước, bướm bay giũa dòng.
Vì đâu y-phục bất đồng,
Bỗng đem nữ sức phó cùng thủy hương.
Trông theo tấc dạ thêm càng,
Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu.
Đương trường dặm ngựa ruổi mau,
Trông lên đã thấy miếu đâu gần gần.
Trên yên dạy hỏi thổ-quân,
1120Thưa rằng: "Miếu ấy Chiêu Quân một tòa.
Xuất thân từ thủa Hán-gia,
Quyết liều đến Hắc-thủy hà trầm châu.
Tiết-trinh khôn đổi được đâu,
Vóc thiêng ngược nước trở đầu về nam.
Cõi này mến chút danh thơm,
Dựng làm miếu-vũ sớm hôm phụng thờ.
Một phương bậc tối linh-từ,
Kể năm, ba bốn trăm thừa đã lâu.
Oai-linh đã khắp đâu đâu,
1130Kẻ xin cứu bệnh, người cầu chiêm-bao."
Tiểu-thư nghe nói mừng sao,
Trước đền xuống ngựa, bước vào thử coi.
Nguy-nga miếu mạo hẳn-hoi,
Một tòa thần-tượng trên ngồi nghiễm-nhiên.
Oai-linh vóc thánh, dáng tiên,
Lồng màn vẻ trắng, ánh đèn sắc tươi.
Son vàng mặt khảm tay ngai,
Lò trong ngát xạ, đỉnh ngoài bay hương,
Lạnh-lùng bát-ngát hơi dương,
1140Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai,
Nữ-đồng, võ-sĩ đủ người.
Hầu trong hai ả, chầu ngoài tám viên.
Đồ thờ cắm giá án tiền,
Một bên bảo-kiếm, một bên tỳ-bà.
Tiểu-thư lưỡng-lự một giờ,
Sụp ngồi bốn lạy xa xa tự tình.
Khấn thầm thở ngọn, than ngành:
"Nỗi chồng oan-uổng, nỗi mình truân-chiên.
Lầm người vì chước hòa Phiên,
1150Đem thân yểu-diệu tới miền hôi-tanh.
Đánh liều bao quản tử sinh,
Thề rằng quyết chẳng nhơ mình tiểu-man.
Thiêng chăng thu lấy hồn oan,
Rộng cho chầu-chực trước ban là nhờ!"
Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ,
Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao.
Hay đâu mấy bộ Công-tào,
Đã đem lời khấn tâu vào Chiêu Quân.
Phán rằng: "Mới thực hiền-nhân,
1160Nặng bề sơn-hải nhẹ thân yêu-kiều.
Bảng trời hôm nọ mới treo,
Mai-sinh tên đã giật lèo Trạng-nguyên.
Ngày sau phu-phụ đoàn viên,
Nay ta hãy cứu một phen mới là."
Bèn ban nữ-sứ bước ra,
Đòi hồn nàng lại, nhủ qua ân cần.
Rằng: "Ta là Hán Chiêu Quân,
Cứu cho cũng dự phu-nhân trinh thành.
Rồi ra về đến quê mình,
1170Sau đây phu quí phụ vinh vẹn tròn."
Dạy rồi phó trả thần-hồn,
Lại đòi lực-sĩ ôn-tồn nhủ qua:
"Đón nàng khi sắp đầu hà,
Đem về đại-quốc vườn hoa Bá Phù.
Người Trung-châu, trả Trung-châu,
Mặc ai trọn nghĩa, báo thù mặc ai."
Gió đâu lọt cánh cửa ngoài,
Tỉnh ra còn nhớ mấy lời chiêm-bao.
Nghĩ ra nào biết đâu nào,
1180Vững lòng khi dám chắc vào những đâu...
Án tiền ren-rén cúi đầu,
Bước ra lại vịnh bốn câu lưu đề.
Lên yên gióng ngựa ra đi,
Núi cao đã thấy hầu kề tới nơi.
Hỏi tên là Lạc-nhạn-đài,
Trùm mây mờ-mịt, nhất trời bông-lông,
Nàng rằng: "Tích trước ghi lòng,
Chiêu Quân gửi nhạn thư phong chốn này.
Đường đi nhân tiện qua đây,
1190Nhắn chim, bắt chước chuyện ngày ấy chơi."
Kíp truyền man tốt mấy lời,
Dọn đường núi nhạn, kíp dời gót loan.
Phò nàng ngồi kiệu đăng san,
Hai nàng thị-nữ, một đoàn phiên binh.
Bước cao bước thấp gập-ghềnh,
Quăn-queo đuôi chuột, chênh-vênh tai mèo.
Nương đá quạnh, vịn cành oeo,
Chim xào-xạc lá, vượn reo-rắc cành.
Sẵn-sàng cảnh vật chung quanh,
1200Phong đồn mở phạt, mây xanh buông màn.
Bước lên tuyệt đỉnh tàn tàn,
Trông dường chật đất, với toan đến trời.
Mặt sau lần bước lên chơi,
Nhìn đâu bỗng thấy một nơi có đầm.
Mắt mèo trong vắt nổi tăm,
Rắn quằn-quại khúc, mãng nhăm-nhắp hàm.
Cheo-leo sườn núi trông sang,
Khe kia suối nọ ngổn-ngang mấy trùng.
Nửa ngày nổi trận âm phong,
1210Phất-phơ lật lá, lạnh-lùng thấu xương.
Đất đâu sơn thủy lạ dường ?
Ngẩn-ngơ mình những cảm thương nỗi mình.
Xót thay đôi đức sinh-thành,
Biết bao nguôi được chút tình nhớ-thương.
Một ngày một ngả bóng tang,
Da mồi sạm mặt, tóc sương điểm đầu.
Biết nhau, thêm dở-dang nhau,
Quen hơi bén tiếng bao lâu mà rằng!
Ấy ai chấp mối xích-thằng,
1220Biết mà dứt chỉ, thà đừng vương tơ.
Như lời thần mộng họa là,
Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh.
Đường cùng giữ lấy thơm danh,
Thôi thì gác hiếu với tình một bên.
Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền,
Nữa khi nước đến, e nên cát lầm.
Tấc lòng cả quyết khôn cầm,
Tấm thân phó mặc dưới đầm sâu sâu.
Thị-tỳ trông trước nhìn sau,
1230Nàng đà gieo ngọc trầm châu bao giờ.
Ai ngờ ra sự chẳng ngờ,
Phiên-binh nhớn nhác, nhớn-nhơ một đoàn.
Bảo nhau sắp sẵn mưu gian,
Cải-trang bắt lấy thúy-hoàn để thay.
Miệng bình bưng kín ai hay.
Chăm chăm giục ngựa mấy ngày trẩy sang.
Hấp-him thay nhẽ,Man-vương,
Hững hờ nào biết rằng nường là ai.
Thúy-hoàn riêng được hẳn-hoi,
1240Đổi hình tỳ-thiếp, thay ngôi phi-tần.
Mới hay trời với giai-nhân,
Được riêng chữ tiết, nắm phần chữ danh.
Làm cho chán nỗi thử thanh,
Trải bao nạn trước, mới dành phúc sau.
Tiểu-thư từ xuống đầm sâu,
Hồng-vân một đóa đón đâu nửa chừng,
Ào ào tiếng gió lay rừng,
Giữa trời vũ giá vân đằng đem đi.
Mấy lời thần-mộng xa nghe:
1250"Ta đây vâng mệnh đưa về Trung-hoa!"
Giờ lâu bỗng thấy chân sa,
Nhìn thôi mới rõ một tòa danh viên.
Canh khuya văng-vẳng bốn bên,
Thôi năn-nỉ khóc, lại rền-rĩ than.
Tỉnh mê riêng những bàn-hoàn,
Nào non nước tá ? Ủy ! Vườn tược đâu ?
Chẳng hay là đất Trung-châu,
Nhà quan Ngự-sử là Châu Bá Phù.
Ông đương thượng lỵ Đông-đô,
1260Để lưu con gái với phu-nhân nhà.
Tiểu-thư vả bậc tài-hoa,
Khuê-phòng tiểu-tự gọi là Vân Anh.
Đốt hương vừa buổi đêm thanh,
Nghe đâu ti-tỉ như hình tiếng ai.
Giờ lâu truyền gọi con đòi,
Soi đèn xem thử có người đâu đây.
Tiểu-hoàn vâng lệnh ra ngay,
Soi xem bỗng rụng-rời tay, trở về.
Rằng :"Người đâu của dị-kỳ ?
1270Đỉnh đầu lông hổ, vằn-vè áo lưng.
Ở đâu về đấy nhưng-nhưng,
Ấy rằng quỉ-sứ, hay rằng hồ-tinh!"
Một nhà sào gậy xúm quanh,
Hạnh-Nguyên mới bạch thực tình trước sau.
Thấy người phong-điệu cửa hầu,
Dạy cho vào đến trước lầu hỏi-han.
Hạnh-Nguyên mới hỏi nguồn cơn :
Nỗi nhà tách-bạch, nỗi oan rạch-ròi
Hòa Phiên khi đến nước ngoài,
1280Miếu thần ứng mộng, nhạn-nhai gieo mình.
Phép thiêng cải tử hoàn sinh,
Ở hiền may gặp lại lành đến đây.
Phu-nhân rằng: "Ấy mới hay,
Thế-gian cũng có sự này lạ ghê.
Thần còn cứu kẻ nhân-nghì,
Dễ hầu người chẳng liệu bề xót nhau ?
Ở đây chẳng ngại chi đâu,
Cho làm nghĩa-nữ bạn hầu tiểu-thư.
Rồi sau nhắn bảo mẹ cha,
1290Trời cho khi dễ, họa là gặp nhau."
Hạnh-Nguyên vâng mệnh trước sau,
Sụp ngồi nàng mới gật đầu mấy phen.
Vân-Anh từ được bạn hiền,
Yêu bên chữ sắc, trọng nhau chữ tài.
Hai người như thể một người,
Ngang tay tú-các sánh vai lan-phòng.
Dệt thêu, học lẫn nữ-công,
Lúc chia hoa ướp, khi chung phấn giồi.
Hạnh-Nguyên khi đứng khi ngồi,
1300Khóc thầm trong vắng, gượng cười ngoài sân.
Nàng đà được chốn an thân,
Xót thay chàng Bích, chàng Xuân hai người.
Ai-quan chân chửa kịp dời,
Mã-bài đã có chỉ đòi Đảng-công.
Chẳng ngờ Lư Kỷ tấu trong,
Thiên-lao đã bắt vợ chồng Đông Sơ.
Hai chàng còn tiễn tiểu-thư,
Cũng ban mật-chỉ truyền cho bắt về.
Đảng-công chống-chế mọi bề,
1310Cấp thêm hành lý giục đi lánh mình.
Cùng nhau hai gã thư-sinh,
Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa.
Trời hôm xế bóng tà-tà,
Côn-quang đâu bỗng gặp ba bốn người.
Lòng tham còn biết thương ai,
Cướp hành-lý hết, áo ngoài sạch không.
Tạm ngồi trước miếu bên sông,
Thuyền quan nghe có thùng thùng trống canh.
Nghi cho là kẻ gian tình,
1320Nghe hơi kéo một đạo binh lên bờ.
Xuân-sinh kíp lánh đường xa,
Bắt liền Mai Bích mới đưa xuống thuyền.
Chàng bèn cất mặt trông lên,
Thấy trong khoang giữa, ngồi nền một ông.
Mấy lời sang sảng tiếng đồng:
"Tên kia sao dám cả lòng mưu gian ?"
Sinh rằng: "Đâu dám to gan,
Đèn trời xin thấu nỗi oan cho người.
Tôi cùng người bạn anh tôi,
1330"Tìm người thân-thích lạc loài đến đây.
Nào ngờ gặp sự chẳng may,
Dám xin xét tấm lòng ngay được nhờ."
Ông xem ra dáng con nhà,
Truyền đem nghiên-bút thử và câu chơi.
Chàng vâng lĩnh bút đề bài,
Viết xong Chế-nghệ một bài nộp đi.
Ông rằng: "Nhục nhỡn nan tri,
Thứ cho thì chớ, dù chê dám nài.
Bước lên xin hãy tạm ngồi,
1340Áo đưa một cặp, ngắn dài quản chi.
Họ tên sao đấy ? Ở quê xa gần ?"
Dằn lòng, sinh những ngại-ngần,
Giả danh rồi sẽ nghe dần về sau.
Thưa rằng: "Xin kể gót đầu,
Tên Vinh họ Mục, Thường-châu là nhà."
Ông rằng: "Quê đấy chẳng xa,
Có quen Mai-thị cùng là ai không ?
Sinh rằng: "Cùng ở môt vùng,
1350Bạn-bè cũng biết có công-tử chàng.
Từ khi gặp biến phi thường,
Chẳng hay đâu đấy tìm phương lánh mình.
Tôi nay vâng đẹp duyên bình,
Xin tường quí tính, đại danh, được nhờ."
Ông rằng: "Cũng chẳng đâu xa,
Ở Giang-nam tỉnh, tên là Lạc Thiên.
Cách quan về việc bình Phiên,
Rày vâng khai-phục, ra miền Ngọc-kinh."
Đêm khuya trống đã sang canh,
1360Truyền đem gối đệm, nghỉ mình khoang trong.
Mấy tuần thuận bến xuôi giòng,
Mui bồng trăng tối, buồm dòng gió trưa.
Quan lão-luyện, khách tài hoa,
Cuộc cờ trên lái, đường tơ dưới lèo.
Mây buổi sớm, nước ban chiều,
Thơ ngâm ngoài mạn, rượu kèo trong khoang.
Kinh-thành mong-mỏi tấc gang,
Chìu lòng nước cũng bằng dường như tên.
Bỗng đâu một chiếc kề bên,
1370Hỏi ra mới biết là thuyền Châu-công.
Gặp nhau kể hết sự lòng,
Họ Châu môn-đệ, họ Phùng ân sư.
Châu-công rằng: "Lẽ gọi là,
Kính dâng một lễ, gọi đưa tấc thành.
Hà-nam vâng mệnh tuần-hành,
Một phương xích-tử triều-đình trong tay.
Những là lo-lắng đêm ngày,
Dưới màn ai kẻ đỡ thay tờ bồi.
Ân-sư liên-hữu có ai,
1380Môn-sinh xin được một người là may !"
Phùng-công rằng: "Đã sẵn đây !
Mục-Vinh gặp mấy buổi nay cũng kỳ.
Văn-chương tài-mạo ai bì,
Có chăng là một chữ "thì " kém ta.
Cánh bằng khi gặp gió xa,
Tung mây chưa biết lên đà đến đâu,
Nhân-duyên may gặp được nhau,
Việc nha xem đỡ, ta sau sá gì."
Hai ông trò-chuyện dã-dề,
1390Mới đem họ Mục đưa về Châu-công.
Của đưa gọi chút lấy lòng,
Một hòm tân-phục, hai phong nhật trình.
Tiễn rồi lại dặn Mục-Vinh :
"Trượng-phu xin chớ quản tình biệt-ly."
Yên xong trở mũi thuyền đi,
Kẻ thì phó lỵ người thì tiến kinh.
Thương thay còn một Xuân-sinh,
Liền đêm hôm ấy lánh mình xa xa.
Sáng ngày thức dậy nhớ ra,
1400Sơn-đông quen một người là Thái Câu.
Xưa từng lỵ-phủ Nhiêu-châu,
Cách quan nghe mấy năm sau ở nhà.
Hỏi thăm tìm đến hỏi qua,
Cửa ngoài đã thấy có tờ biên-phong.
Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung,
Chứng cho một án giao-thông giặc ngoài.
Xuân-sinh thấy sự kíp dời,
Một mình mặt đất, chân trời bơ-vơ.
Than rằng thung cỗi huyên già,
1410Thiên-lao biết có bao giờ biện oan.
Người tuổi-tác, khách cô-đan,
Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai ?
Xót ai thui-thủi phương trời,
Hồng-nhan khi đã ra người cửu-nguyên.
Hiếu tình đeo nặng hai bên,
Dặn dò những chắc chu-tuyền có ta.
"Mai-kha ơi, hỡi Mai-kha,
Rời nhau một bước nên xa mấy trùng.
Một đêm sương tuyết lạnh-lùng,
1420Khỏi chăng ? hay đã mắc vòng trần ai?
Thương thay trung-nghĩa mấy người,
Kẻ thì oan thác người nơi ngục hình.
Trách vua Đường, ở bất minh,
Dung bên gian-đảng mà khinh hiền-tài."
Bên lòng trăm mối bời bời,
Trông ra một nước một trời mênh-mông.
Tử sinh xem nhẹ lông hồng,
Quyết liều, sinh đã gieo sông bao giờ.
Hay đâu khéo cũng may mà,
1430Gần đâu đấy, có ngư-gia đóng thuyền.
Giăng chài vớt được chàng lên,
Tỉnh dần, trông rõ hai bên ngồi nhìn.
Trẻ-già một lũ cạn khan,
Đầu cành-cạch tóc, mình nhờn-nhợt da.
Ngồi bên thuyền chủ một bà,
Kề bên một ả mặt hoa tót vời.
Ngồi trông ra rõ mặt người,
Thương ôi ! sao nỡ bỏ hoài tuổi xanh !
Ở đâu mà đến chài mình,
1440Hãy còn im-ỉm khí sinh lạ đời.
Thay quần đổi áo tơi bời,
Ngư-bà mới hỏi mấy lời trước sau:
"Chẳng hay quê, họ nơi đâu ?
Gặp nhau xin tỏ cho nhau biết cùng
Làm sao mà phải gieo sông?
Hay là tội-lệ cát hung thế nào ?"
Xuân-sinh mới kể gót đầu:
"Quê tôi ở huyện Thường-châu cũng gần.
Cha làm quan, họ là Trần,
1450Chẳng may mắc phải gian-thần vu oan,
Tâu vua bắt chị hòa Man,
Thiên-lao lại bắt thung-đường phó giam.
Tôi tiễn chị tôi xuất quan,
Bỗng nghe mật-chỉ sai quan nã về.
Vậy nên tôi phải lánh đi,
Chẳng may gặp lũ gian-phi giữa đường.
Than ôi ! đương hợp mà tan,
Một mình tránh khỏi nguy-nàn tới đây.
Cả liều nào quản vơi đầy,
1460Phúc sao, may khéo là may, gặp người."
Ngư-bà nghe bấy nhiêu lời,
Nhủ rằng: "Thôi cũng có trời chẳng không !
Năm xưa vớt được giữa dòng,
Một hòm âm-ấp những vòng với thoa.
Khen thầy nó dặn lão-bà,
Để cho con gái tên là Ngọc Thư.
Gặp ông thầy số năm xưa,
Đoán cung-mệnh cháu khen bà phu-nhân.
Gạo công, đòi đủ trăm cân,
1470"Khen đi, khen lại phu-nhân khác thường,
Bây giờ may vớt được chường,
Mà xem tướng-mạo đường đường dáng quan.
Hẳn rằng thiên địa tuần-hoàn,
Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài.
Nên nay lại vớt được người,
Hai phen vớt được một đôi rõ-ràng.
Thôi đừng quản thiệt tham hơn,
Băn-khoăn kén cá, phàn-nàn chọn canh.
Ngọc Thư cho kết duyên lành,
1480Họa là phu quí phụ vinh kịp ngày.
Được như số đoán là may,
Vong-hồn cũng thỏa đến thầy nó xưa."
Xuân-sinh nghĩ đã chót nhờ,
Vả xem phong-dạng Ngọc Thư ra tuồng.
Thưa rằng: "Chút phận tha hương,
Đã thương yêu đến, dám ruồng-rẫy ru !
Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,
Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa."
Bà mừng, kíp gọi Ngọc Thư,
1490Một lời đã định phải ra chào mời.
Thẹn-thùng lững-thững chân dời,
Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường.
Quả nhiên nhan-sắc dị thường,
Mai hình tú bộ khác thường ngư-gia.
Khi vui nảy phút hứng thừa,
Khen thầm trong bụng nên thơ một bài.
Thấy chàng, nàng cũng mừng vui,
Dáng người thanh-thú, vẻ người văn-chương.
Chắc rằng có phận giàu-sang,
1500Hứng lòng cũng ngụ luật Đường bốn câu.
Dần-dà quen thuộc bấy lâu,
Mới hay nương-tử họ Châu ấy là.
Nực cười thay ! thú ngư-gia,
Sớm qua Tầm-thủy, tối về Hàn-san.
Ca chèo, nhịp nhặt, nhịp khoan,
Trăng lòn sau lái, gió đàn trước song.
Bốn mùa mặt nước sinh nhai,
Lưỡi câu, sợi chỉ, tay chài mặt sông.
Mặc ai danh-lợi trong vòng,
Xiêm vằn-vặn lưới, đai long-lỏng thừng,
Thoi đưa nấn-ná ba đông,
1510Trải phần đông-quí, sang chừng xuân qua.
Tết trung náo-nức gần xa,
Neo thuyền giặt lưới, giăng bè dựng nêu.
Ngư-bà mới bảo Ngọc Kiều,
Mượn điềm bói cá thay gieo tú cầu:
"Lưới này như được cá đầu,
Duyên con thì định xuân sau kén ngày.
Ví bằng ba lưới không tay,
Thành thân thong-thả sau này sẽ hay."
Bàn rồi chia việc làm ngay,
1520Kẻ buông tay lưới, người gay cột chèo.
Cầm sào chàng cũng đẩy theo,
Ngọc Thư đỡ lấy có chiều lần-khân.
Lạ gì đôi lứa vừa xuân,
Ai hay rơm bén, lửa gần với nhau ?
Ngư-bà liếc thấy vừa hai,
Nghĩ thầm chuyện ấy có người, có ta!
Người yểu-điệu, kẻ tài-hoa,
Khi vào sát áo, khi ra chạm quần.
Nghe nặng lưới, kẻo lên dần,
1530Lý-ngư đâu đấy trần-trần một đôi.
Sinh rằng: "Ăn những ngồi rồi,
Này xin đem bán chợ chơi một lần"
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà cho trải với thế-nhân đủ điều.
Chàng vừa đi khỏi chợ chiều.
Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.
Trên mui ngồi tót một người,
Nghênh-ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.
Một thuyền vâng dạ đã rân,
1540Tiểu-hầu, đầy tớ một đoàn như rươi.
Khoe-khoang một tấc đến trời,
Quần hồ sột-soạt, áo mồi trai lơ.
Trông sang nhác thấy Ngọc Thư,
Xúm quang, rắn ếch, bướm hoa, động lòng.
Đặt ra một mẹo hư không,
Bạc năm mươi lạng một phong sẵn-sàng.
Giao cho đầy tớ đưa sang,
Mua làm tiểu-thiếp, mong đường ép duyên.
Thuận lòng bao quản sang hèn,
1550Tam-bành bà đã nổi lên một hồi.
Ngọc Thư ngấm-nguýt một hai,
Trong khi quá giận, lắm lời sam-sưa.
Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,
Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.
Tiếng nàng kêu dậy giang khê,
Một đoàn thuyền-hộ kéo bè la om.
Vác sào quơ gậy ỳ-òm,
Lao-xao nổi tép nổi tôm một vùng.
Lời thô tiếng tục như ong,
1560Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.
Bàn dày, bàn mỏng giờ lâu,
Xuân-sinh trong chợ may đâu vừa về
Can rằng: "Xin hãy im đi,
Khôn không qua lẽ, phép thì có quan."
Bảo nhau tìm chốn kêu oan.
Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư-nhân.
Bước đi bóng đã xế dần,
Nửa đường gặp lũ quan-quân dài dài.
Đèn lồng trước kiệu hàng hai,
1570Hiệu đèn Đề-đốc chữ nhồi nét son.
Giữa đường quì xuống kêu dồn.
Nghe truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.
Thưa rằng: "Chút phận ngư-gia,
Gặp chàng công-tử, họ là họ Giang.
Khinh người hèn, cậy mình sang.
Lấy điều thân-thế, toan đường hiếp ai.
Kề thuyền cướp lấy vợ người,
Chuyện này, muôn đợi đèn trời xét cho.
Cao-minh xin thứ dân ngu,
1580Vội-vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ."
Lệnh quan một tiếng truyền ra :
"Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường.
Tên này phong-dạng ra tuồng,
Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư-gia!"
Kịp truyền tới bến đại hà.
Bắt Giang công-tử về nha tức thì.
Nguyên-đơn cũng bắt đem về,
Kiệu đi một lúc đã kề đại-doanh.
Hiên-môn vẽ hổ trước bình,
1590Giáo thăm-thẳm dóng, quân sình-sịch hơi.
Thung-dung xuống kiệu sảnh ngoài,
Tiếng loa thị-sự, hồi còi thu quân.
Hầu bên hai dãy biền-thân,
Nệm trăm-trắm trải, nến rần-rật giong (chong).
Ngậm tăm lặng ngắt như không,
Trại ngoài điểm trống, dinh trong đóng kèn.
Một vòng quân khảo như nêm
Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.
Giao canh trống mới sang hai,
1600Phạm tù đã thấy lôi-thôi điệu về.
Giang Khôi dường cũng khiếp uy.
Liếc trông mặt sắt lặng nghe tiếng đồng.
Quở rằng: "Cậy thế thị hùng,
Ra ngoài văn-pháp vào trong dâm-tà.
Án này cứ miệng ngư-gia,
Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa ?"
Kiên gan Khôi cũng lôi-la,
Rằng mua rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.
Rồi ra chứng-tá phân minh,
1610Dường cưng-cứng lưỡi, dường quanh-quẩn lời.
Quan-môn biết sự chẳng sai,
Lấy điều nhỏ-nhặt truyền đòi Ngọc Thư.
Hỏi ra mới biết rằng là:
"Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn!"
Đòi Giang tri-phủ quở dồn:
"Khen làm dân-mục dung con bất tài.
Mắt trông tay trỏ đủ mười,
Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che.
Tội con phạt bốn mươi bê,
1620Cha đà biết tội tha về lượng cho.
Nguyên-đơn một lũ họ Châu,
Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong."
Truyền cho ở lại nha-phòng,
Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu.
Ai hay sự bởi vì đâu,
Quan Đề-đốc ấy, họ Khâu gọi là.
Hiếm-hoi mới được mộng xà,
Vân-Tiên một gái mặt hoa khuynh-thành.
Cũng trong họ Mạc chung quanh,
1630Vốn là cậu ruột Mai-sinh đấy mà!
Từ khi khởi nạn Mai-gia,
Phu-nhân sang đó nương nhờ bấy lâu.
Cách đêm vừa sáng hôm sau,
Buông rèm hỏi lũ họ Châu xem tình.
Ngư-bà đâu dám giấu quanh,
Mới đem sự-tích Xuân-sinh kể bày.
Sốt lòng ông mới dạy ngay,
Hãy đem tên rể vào đây hỏi tường.
Xuân-sinh thấy sự rõ ràng,
1640Bấy giờ chàng kể nỗi chàng đầu đuôi:
Từ khi gặp-gỡ họ Mai,
Khi toan xe chỉ, khi đòi xuất quan.
Khi lánh nạn, lúc nghe oan,
Cùng Mai-sinh, nỗi hợp tan mấy lần.
Chàng vừa kể hết xa gần,
Mai phu-nhân bỗng khóc lăn dưới thềm.
Khóc rồi mới bước ra thềm,
Cầm tay chàng mới nhìn xem một giờ.
Dạy rằng: "Gang tấc nên xa,
1650Thế mà già vẫn còn ngờ rằng ai!"
Khâu-công rằng: "Hãy khoan thai,
Dám xin mời cả vào ngồi nhà trong.
Thay quần đổi áo yên xong,
Rồi ta sẽ kể sự lòng với nhau."
Ngư-bà chưa rõ gót đầu,
Thôi bâng-khuâng nghĩ, lại chầu-hầu trông:
"Ủy, sao nhà kiện, cửa công,
Ra tình nhìn-nhận, ra lòng yêu-thân?”
Thư-phòng rót chén tẩy trần.
1660Một ông với một chàng Xuân bàn-hoàn,
Kể lòng mấy chuyện hợp tan,
Nhà trong cũng mở một bàn tiệc hoa.
Ngôi trên dường tuổi Ngư-bà.
Hai phu-nhân với tiểu-thư hai người.
Nhìn lâu ngợp mắt làng chài,
Mâm vàng chồng-chất, chén mồi đầy-vơi.
Hải vị tốt, yến sào tươi,
Khác màu nấu chuội, khác mùi hơ qua.
Vả trong bồi tiếp việc hoa,
1670Hai nàng tiên-nữ, hai bà phu-nhân.
Mừng thầm con đã yên thân,
Gẫm lời thầy số mười phần chẳng sai.
Khâu-công xong tiệc rượu ngoài,
Mai phu-nhân mới rỉ tai vài lời:
"Nghĩ rằng cậu mợ hiếm-hoi,
Điềm hùng chưa ứng, chúc trai muộn màng.
Nay xem công-tử họ Trần,
Khôi ngô vẻ mặt, đai cân dấu nhà.
Tòng quyền cho nghĩ nương nhờ,
1680Minh-linh rồi sẽ đổi ra đông-sàng."
Bàn rồi bèn giục-giã chàng,
Thung-dung trước mặt, gia nương khấu đầu.
Vâng lời theo họ là Khâu,
Tên là Khôi, để từ sau gọi thường.
Còn ngư-bà với Ngọc-nương,
Cũng cho nhìn-nhận trong đường thân hơi.
Ngư-bà xin tới bến ngoài,
Tìm người phường bạn, giã lời với nhau.
Ông truyền sắp kiệu theo hầu,
1690Rập-rình gươm trước, ngựa sau ra tuồng.
Ngồi trong ghé ngửa nom ngang,
Phút đâu kiệu đã tới phường bến xưa.
Vội-vàng bước xuống thuyền nhà,
Kẻ quen người thuộc còn ngờ rằng ai.
Giờ lâu nhìn rõ mặt người,
Nọ người khoác nách, nọ người vỗ tay.
Hỏi săn hỏi đón đã đầy,
Kiệu làm sao đấy ? kiệu này của ai ?
Bà rằng: "Kiện-cáo gì tôi,
1700Này này ! anh nó vào ngồi với quan !
Từ rày phường bạn đừng nhờn,
Đủ trăm văn-lý, dư muôn thế-trần!
Giang Khôi rày hẳn biết thân.
Hôm xưa thầy tớ một sân chịu đòn.
Kẻo còn bắt những gầu non,
Kẻo còn hống-hách, kẻo còn dọa hơi."
Cùng nhau từ-giã mấy lời,
Lại ngồi lên kiệu, kíp dời về dinh.
Khâu Khôi yên phận đã đành,
1710Đường xa này chuyện Mục Vinh còn dài.
Phủ Châu nương-náu cửa người,
Án-tờ xem đỡ, văn-bài tập riêng.
Tài mẫn-tiệp, tính thông-miêng,
Phần chăm việc khách, phần siêng việc mình.
Hà-nam một tỉnh chính thanh,
Châu-công biết sức, thêm tình yêu-đương.
Nghĩ mình có gái Vân-nương,
Quyết lòng đành rắp đông-sàng đợi ai.
Xa nhà chưa dám ngỏ lời,
1720Tin đâu đã có chỉ đòi lai Kinh.
Tỏ tin, bàn với Mục-Vinh:
Khuyên chàng về phủ Đại danh quê nhà.
Băn-khoăn muôn dặm đường xa,
Tư thư mới gửi cho bà phu-nhân.
Trong thư mọi nỗi xa gần,
Dặn-dò lấy lễ sư-tân đãi chàng.
Đinh-ninh một việc đông-sàng,
Chuyện riêng lại phụ mấy hàng dặn sau.
Mục-Vinh sắm-sửa quân hầu,
1730Trỏ đường tư-thất họ Châu trở về.
Tay cung, thanh quất, cây tỳ,
Ngao-du sơn thủy, đề-huề gió trăng.
Hề-đồng theo bốn năm thằng,
Thơ ninh-ních túi, rượu lưng-lửng bầu.
Đường xa giong-ruổi vó câu,
Thoắt đà tới phủ họ Châu bao giờ.
Phu-nhân biết ý trong tờ,
Tình riêng đâu dám hững-hờ như ai.
Riêng mình chàng, một thư-trai,
1740Đồ cung-cấp hậu, vẻ bài-trí thanh.
Cổ thư, cổ họa, buông tranh,
Bên giường triện-bách, trước bình phong-lan.
Giá bày túi sách cạp đàn,
Sẵn hiên ngoạn nguyệt, sẵn vườn thưởng hoa.
Phòng riêng ngày tháng lân-la,
Khi buồn mới giở chiếc thoa ra nhìn.
Càng đau-đớn nỗi Hạnh Nguyên,
Nhớ câu thơ biệt ở trên trùng-đài.
Sẵn nghiên-bút, vẽ ra chơi,
1750Vừa buông tay viết, chẳng rời miệng ngâm.
Càng như khêu mối khổ tâm,
Giấy lòe nét tủi, nghiên dầm giọt thương.
Hay đâu đầy tớ Vân-nương,
Liễu-hoàn một ả Xuân Hương tinh đời.
Thói thường dòm liếc thư-trai,
Gặp chàng vào lúc nhớ người, xem thoa.
Trở về tấp-tểnh, tấp-ta,
Thày-lay mách ả Vân ta mấy lời:
Rằng: "Tướng-công ở nhà ngoài,
1760Thình-lình lắm lúc, tôi coi cũng kỳ,
Tay cầm chẳng biết vật gì,
Mắt thì nhìn kỹ, mặt thì buồn tênh.
Kỳ này ra khổ thất tình,
Kém nhan-sắc trước, khác hình-thù xưa.
Tôi lừa khi vắng lẻn ra,
Chỗ ngồi bắt được cái thoa lạ đời"
Vân Anh xem của nghe lời,
Gẫm tay này hẳn có người tình chung.
Thoa này ai dễ cho không.
1770Dễ hầu biết mặt tin lòng được ai ?
Mục Vinh phải buổi ra ngoài,
Về xem hòm sách tơi-bời giở tung.
Thấy khác dấu, đã chột lòng,
Xem cành thoa ấy lại không thấy rồi.
Khóc-than vật-vã một hồi,
Trách mình lơ-đễnh, giận người tham-lam.
Nghĩ rằng kẻ bắc người nam,
Chắc còn thoa ấy, để làm duyên sau.
Gẫm duyên mỏng-mảnh vì đâu,
1780Tỉ-ti vật mọn cũng hầu tìm đi.
Bệnh đâu dắt đến tức thì,
Cơm hoa biếng nhắp, giấc hòe kém yên.
Chiêm-bao mê-mẩn liền liền,
Trùng-đài trước mặt, Hạnh Nguyên bên mình.
Phu-nhân những hậu vì tình,
Mời thầy thuốc, cắt đồng-sinh giữ-gìn.
Nỗi ngoài họ Mục chưa yên,
Não người, còn nỗi Hạnh Nguyên trong nhà.
Phải khi ngồi với Vân-thư,
1790Thấy cành thoa ấy chân hư rành rành.
Giờ lâu nhìn dấu của mình,
Trùng-đài lưu tặng Mai-sinh những ngày.
Người đâu mà của thấy đây ?
Hẳn rằng bóng hạc xe mây đã đành.
Duyên này đã hẳn ba sinh,
Gặp nhau đành giữ chung tình kiếp sau.
Tấm thương chẳng đánh mà đau,
Lan-sương biếng kẻ, mai-câu biếng giồi.
Tấc riêng riêng những ngậm-ngùi,
1800Bữa thường miệng đắng, đêm dài bóng chung.
Phu-nhân rối tợ bồng-bong,
Khuê phòng ép thuốc, thư-phòng nài thang.
Dạy mua hai cỗ thọ-đường,
Phòng khi nhất đán phi-thường cho ai !
Bỗng đâu một lúc tơi bời,
Nỗi trong nhộn-nhịp, nỗi ngoài dở-dang.
Liễu-hoàn nối gót thư-đường,
Thấy hai phương cũng hung-phương một giờ.
Phu-nhân ghé hỏi sau xưa,
1810Gọi lên đã thấy tiểu-thư tỉnh dần.
Thưa rằng: "Lưu-lạc chút thân,
Bao dong kể đã đội ân nghìn trùng.
Hay đâu số phận mỏng-manh,
Xưa nay mệnh bạc chữ chung má đào.
Phòng khi muôn một thế nào,
Xin ba tấc đất để vào hướng nam.
Con dù chín suối cũng thơm,
Bấy lâu công-đức đã cam phụ người."
Phu-nhân khuyên-giải mấy lời,
1820Cùng Vân-Thư tới nhà ngoài thăm lênh.
Kề tai mấy tiếng gọi sinh,
Vừa lim-lỉm giấc, thoắt tinh-tỉnh dần.
Xuân-Hương trình trước phòng văn:
"Tiểu-thư vâng mệnh phu-nhân trong phòng.
Ra đây thăm bệnh tướng công,
Dám xin gượng kẻo bỏ lòng chủ-nhân."
Sinh rằng: "Chút phận gia-thần,
Ân lòng đãi lễ sư-tân bấy chầy.
Những mong báo-đáp có ngày,
1830Ai ngờ nên nỗi nước này như không ?
Vẻ chi thân nhẹ lông hồng,
Thăm lênh để nặng tấm lòng tiểu-thư.
Dù khi giải kết bao giờ,
Phong phần chính bắc xin nhờ ghi cho."
Bên giường mấy nỗi dặn-dò,
Phu-nhân nghĩ-ngợi thêm hồ-nghi ra.
Cùng nhau bàn mảnh trong nhà,
Xuân-Hương mách-lẻo trình bà phu-nhân:
"Chuyện này xin chớ ngại-ngần,
1840Tôi đà tỏ hết nỗi gần nỗi xa.
Cũng vì có một chiếc thoa,
Kẻ bâng-khuâng nhớ, người ngờ-ngẫn thương.
Hai phòng bệnh cũng một đường,
Mê rồi lại tỉnh, mơ-màng lăng-nhăng.
Vả xem những tiếng trối-trăng,
Kẻ rằng chính bắc, người rằng chính nam.
Chuyện này để vậy chưa cam,
Xin dò nhắc lại xem làm sao đây."
Theo Vân-thư mới đi ngay,
1850Phen này quyết tỏ lòng này cho ai.
Lẳng-lơ đứng trước thư-trai,
Đem thơ tiễn-biệt Trùng-đài đọc chơi.
Mục Vinh nghe vẳng bên tai,
Bằng dường xét đánh lưng trời bỗng đâu.
Gọi vào, hỏi trước, hỏi sau,
Mỉm cười, Hương mới kể đầu, kể đuôi.
Nỗi nàng mách hết rạch-ròi:
"Khi thần đưa đến, khi người bắt nuôi.
Trộm thoa, tội ấy về tôi,
1860Khiến trong nhìn nhận, để ngoài xót-xa.
Mấy câu tôi đọc bây giờ,
Thơ này bắt được với thoa một lần.
Làm khuây, xin hãy tỉnh dần
Đã đành tài-tử, giai-nhân một nhà.
Vả ông tôi dặn trong tờ,
Đinh-ninh dành gả tiểu-thư cho chàng,
Bây giờ gặp nghĩa cũ-càng,
Chẳng hay duyên mới có mang-mể cùng ?"
Sinh rằng: "Muôn đội ơn lòng,
1870Nỗi bà trân-trọng, nỗi ông yêu-vì.
Ví bằng được hẳn thế thì,
Duyên sau nghĩa trước, hai bề vẹn hai."
Bỗng như nói nói, cười cười,
Mười phần bệnh, phỏng còn vài bốn phân,
Xuân Hương tức-tốc dời chân,
Tình đầu bạch với phu-nhân bấy giờ.
Lại vào bảo thực Hạnh-thư:
"Mục Vinh ngoài ấy, ấy là Mai-sinh."
Hạnh Nguyên nghe rõ thực tình,
1880Cất quang-quảng bệnh, nhẹ thênh-thểnh người.
Cho hay những bậc sắc tài,
Thảm vì tình lắm, lại vui vì tình.
Phu-nhân chọn được ngày lành,
Mới truyền dọn-dẹp, mời sinh vội-vàng.
Sửa-sang cuộc rượu hai bàn,
Cách rèm làm lễ truy-hoan một nhà.
Hạnh Nguyên quốc-phục như xưa,
Khoác mành-mành, mới bước ra hỏi chàng.
Rõ mười còn tưởng mơ-màng,
1890Mừng mừng, tủi tủi, khóc than một hồi.
Khóc rồi kể lể đầu đuôi :
Nỗi trên núi nhạn, chuyện ngoài ải mây.
Chết thừa sống thiếu là may,
Bên kia quan gặp, bên này thần đưa.
Bèo trôi, sóng vỗ đến giờ,
Kẻ sang Châu-phủ, người nhờ Phùng-công.
Biết bao nhiêu chuyện đau lòng,
Xuân-sinh lưu-lạc, Sơn-đông cách vời.
Một phen nói, một bồi-hồi,
1900Bâng-khuâng cố-quận ngậm ngùi thiên-lao.
Phu-nhân khuyên-giải thấp cao,
Cùng thôi nước mắt lại vào tiệc hoa.
Tin Kinh bỗng thấy đưa ra:
Châu-công thăng chức hiệu là Thị-lang.
Chỉ ban về lễ từ-đường,
Chàng ra mười dặm đình-trường đón xa.
Ngó trông rợp bóng quan-hà,
Thẻ bài phụng-chỉ ngọn cờ vinh-hương.
Giáp nhau ông đã gặp chường,
1910Song song đôi ngựa trỏ đường cố-gia.
Thu quân hồi trống vào nhà,
Trên yên vách phấn, cắm cờ giá son.
Vào trong thong-thả ôn-tồn,
Một nhà thầy, tớ, vợ, con lạy mừng.
Trong nhà nhộn-nhịp, tưng-bừng,
Âm-thầm thiều nhạc, lẫy-lừng tiệc hoa.
Phu-nhân giả cách lơ-mơ,
Truyền đòi đệ-nhất tiểu-thư ra hầu.
Ông rằng : "Khéo lẽ dối nhau,
1920Hiếm-hoi một gái lấy đâu nhất nhì ?"
Hạnh Nguyên ra trước lạy quì,
Nỗi nàng bà kể mọi bề gian-truân:
"Nghĩ rằng xa, chẳng là gần,
Ai hay con gái bác Trần Đông Sơ !
Tơ đào nghĩ những bao giờ,
Nhân-duyên sớm định về nhà họ Mai.
Hôm xưa lắm chuyện nực cười,
Kẻ trong nhận của, người ngoài mất thoa.
Hai buồng gang tấc nên xa,
1930Thất tình bệnh đã hóa ra mấy ngày.
Tỏ ra mười mấy hôm nay,
Bên kia nhận vợ, bên nây nhận chồng."
Ông nghe thấu hết sự lòng,
Cả cười, mới dạy rằng: "Trong đạo trời.
May ta gặp cả hòa hai,
Trọn tình bè-bạn, được người thi-thư.
Nghĩ chăng, dở một nỗi nhà,
Tính vào thế ấy, hóa ra thế này !"
Bà rằng: "Tôi cũng nghĩ đây,
1940Xưa nay đôi quả một tay cũng nhiều.
Vả trong hai ả tiểu-kiều,
Mười phần xem đã kính yêu cả mười.
Bấy nay hình-ảnh chẳng rời,
Thờ chung quân-tử một người cũng nên.
Mai-sinh nghĩa cả chưa đền,
Phỏng chừng ép-uổng cũng nên một lòng."
Châu-công nghe nói thủy-chung,
Liền ra tiệc ngọc thư-phòng với sinh.
Lòng chàng nghe đã tỏ tình,
1950Lẽ nào giấu quẩn giấu quanh được rày !
Thưa rằng: "Chút phận hèn ngây,
Bấy nay giả-dối, tội rày đã cam."
Ông rằng : "Việc tỉnh Hà-nam,
Bấy lâu cậy một tay làm biết bao ?
Kinh-luân đã tỏ tài cao,
Thớ cong, rễ quánh, thủ dao long-tuyền.
Hiếm-hoi chút gái vụng-hèn,
Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ."
Sinh rằng: "Nguyệt lão xe tơ,
1960Nhân-duyên đã định Trần-gia những ngày,
Làm chi bể ái vơi đầy,
Hạ-đường dám lụy, tiếng này đến ai ?
Vả con hổ phận bất tài,
Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông-sàng."
Ông rằng: "Thôi chớ rẫy-ruồng,
Nhà Ngu xưa có Nga Hoàng, Nữ Anh.
Trượng-phu dù quyết hẹp tình.
Thẹn thay phụ tấm lòng thành lão nô."
Chàng nghe lạy trước thềm hoa,
1970Xưa còn gia-khách nay ra thân tình.
Năm mây nghe chiếu rành rành,
Thi hương, thi hội, thi đình một phen.
Bàn rồi dường lẽ chưa yên,
Chấp kinh cứ thực họ tên sao đành.