Quan hải

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Quan hải - 關海
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

樁木重重海浪前
沉江鐵鎖亦徒然
覆舟始信民猶水
恃險難憑命在天
禍福有媒非一日
英雄遺恨幾千年
乾坤今古無窮意
卻在滄浪遠樹烟

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền ;
Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên[1].
Phúc chu thủy tín dân do thủy[2] ;
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật ;
Anh hùng[3] di hận kỷ thiên niên.
Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
Khước tại thương lang viễn thụ yên[4].

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển ;
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước ;
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Họa phúc có manh mối không phải một ngày ;
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng.
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời.

   




Chú thích

  1. Đóng cọc lim ngăn cửa biển và căng xích sắt ngăn cửa sông là nhắc việc Hồ Quý Ly phòng thủ mặt biển chống giặc Minh
  2. Hồ Quý Ly thất bại là vì dân không ủng hộ. Xưa có câu « Nước hay chở thuyền mà cũng hay lật thuyền » cũng như dân ủng hộ nhà vua mà cũng hay lật đổ nhà vua
  3. Anh hùng: Nguyễn Trãi thi đậu và làm quan ở đời Hồ, vẫn xem Hồ Quý Ly là anh hùng, tuy thất bại
  4. Cái vô tận, vô cùng của không gian và thời gian thể hiện ở chỗ cảnh xa mù bát ngát này