Trai lành gái tốt/Trai lành gái tốt

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
TRAI LÀNH GÁI TỐT

Kiếp người là kiếp long-đong,
Đố ai thoát khỏi trong vòng trần-ai.
Miễn cho thơm tiếng để đời,
Gái lòng tiết-hạnh, trai tài khôi-nguyên.
Kể chi sang cả nghèo hèn,
Trăm năm sau cũng đất đen cỏ vàng.
Chiếc thuyền biển khổ mênh-mang,
Cũng thân chìm nổi, cũng đường bôn-ba.
Mồ vàng chết cũng ra ma,
Ai hay ai giở ấy là bia danh.
Mấy ai gái tốt trai lành,
Chữ trung sánh với chữ trinh mới vừa.
Đông-kinh Hà-nội năm xưa,
Vũ-Minh tên gọi vốn nhà nho-thân.[1]
Bấy lâu đua đuổi trường văn,
Đã thông chữ Việt lại nhuần văn Tây.
Toán tài, viết tốt, vẽ hay,
Địa-dư, cách-trí một ngày một khôn.
Khắp quê tới chợ danh đồn,
Vưọt ba lớp sóng Võ-môn hóa rồng.[2]
Đường-đường một vị thầy Thông,
Đứng bàn Thượng-thẩm văn phòng niết-ty.[3]

Môi son má phấn hiếm gì,
Kẻ trưng Vương Tạ,[4] người khoe Khải Sùng.[5]
Quản chi dìu-dặt bướm ong,
Việc quan rảnh lại ra công sách đèn.
Quần vải trắng, áo the đen,
Luạ là gấm vóc đua chen chẳng màng.
Rượu chè hút sách không vương,
Cao-lâu không biết, nhà hàng không hay.
Mặc ai đồ Chệch đồ Tây,
Người hàng Thượng-hải, kẻ dầy Phờ-răng.
Tổ-tôm, sóc-đĩa không từng,
Sâm-banh, cốt-nhát dửng-dưng mùi đời.
Xá chi chúng bạn chê cười,
Bụng ta ta biết, bụng người người hay.
Một niềm ghét ác binh ngay,
Bất bình thấy truyện ra tay cứu cùng.
Gần miền có một lão-ông,
Vương-Từ tên gọi gốc giòng trâm-anh.
Ở ăn giữ mực hiền lành,
Vun giồng đất phúc chổ cành mẫu-đơn.[6]
Sớm sinh một gái Tường-Loan,
Thu-ba khóe mắt,[7] xuân-san nét mày.[8]

Sắc đành nước đổ thành lay,[9]
Thiên-tài tuyệt phẩm sánh tầy Tạ, Ban.[10]
Câu thơ, nét vẽ, cung đàn,
Huệ-phi[11] thua khéo, Nhược-Lan[12] nhường tài.
Thông-minh đã sẵn tính giời,
Nữ-trường vả lại theo đòi bút nghiên.
May, thêu, toán, vẽ đều nên,
Khoa thi tốt nghiệp đứng tên đỗ đầu.
Hồng-quần[13] rất bực phong-lưu,
Xuân xanh sắp-sỉ tuổi hầu cập kê.[14]
Biết bao bướm lại ong về,
Nghìn vàng giá ấy dễ bì cho cân.
Tin sương đồn đại xa gần,
Có thầy thông Phú chính thần máu dê.
Thất-gia trước đã tính bề,
Buồng trong có kẻ chỉnh tề lược khăn.[15]

Mây mưa mơ tưởng non thần,[16]
Bịnh Tề-Tuyên[17] lại bừng-bừng nổi lên.
Tin đi mối lại liền liền,
Lớp lời ngon ngọt, lớp tiền cưới xin.
Ông rằng: « Phối-hợp là duyên,
« Sao cho cá nước phỉ nguyền mới nên.
« Vợ chồng là sự bách niên,
« Có đâu tham thế, tham tiền ép con.
« Thôi thôi sự ấy mặc con,
« Tự do hôn-thú hãy còn lời xưa. »
Nàng rằng: « Chút phận ngây thơ,
« Se tơ phải lứa muôn nhờ lượng trên.
« Cú đâu chơi lẫn với tiên,
« Ngọc trong sánh với bùn đen sợ lầm.
« Dưới trần mấy mặt tri-âm,
« Non xanh nước biếc ôm cầm cũng thôi.[18]
« Lòng con con đã định rồi,
« Xin đưa tấm thiếp giả nhời cho qua. »
Rằng: « Tôi băng tuyết thói nhà,
« Xuân già còn khỏe, huyên già còn tươi.

« Dưỡng sinh[19] lo chút đền-bồi,
« Nhân-duyên chữ ấy sau rồi sẽ hay.
« Trộm nghe tiếng cả những ngày,
« Châu, Trần vốn đã sánh bày trúc mai.
« Văn-minh theo thói đời nay,
« Một chồng một vợ phương tây thế giòng.
« Yêu hoa sót liễu nặng lòng,
« Lượng trên soi xét thứ không vâng lời. »
Được thơ, Phú nhoẻn miệng cười:
« Vì hoa ta phải cố nài đặng hoa.
« Nàng đà chưa biết ý ta,
« Tao-khang[20] ta bỏ dưới nhà đã lâu.
« Bấy nay tứ hải phượng cầu,[21]
« Nhà vàng dành để đợi chầu tiên-phi.[22]
« Kể chi tới vợ hàn-vi,
« Rứt tình ta quyết tính đi cho rồi. »
Trước tòa trình nộp tờ bồi,
Bới lông tìm vết kiếm lời vu oan.
Li hôn[23] đã toại mưu dan,
Đưa thơ nói với Tường-Loan hay cùng.

Nàng đà giận mắng đùng-đùng:
« Người mà như thế còn hòng lấy ai.
« Ấy ai duyên nợ thề bồi,
« Mặt nào mà nỡ phụ người non sông?
« Ấy ai căn-vặn chữ đồng?
« Lòng nào mà nỡ bỏ lòng cho đang?
« Xấu người đến nỗi Mạnh-Quang,
« Tề mi cử án chàng Lương dám từ.[24]
« Hồ-Dương rứt bậc cung-phi,
« Tống-Hoằng còn chạnh nhớ nghì tao-khang.[25]
« Có đâu ăn ở phũ-phàng?
« Mặt người lòng thú như chàng thế chăng? »
Phú nghe nổi giận tâng-bầng,
Nửa căm nửa tiếc nghiến răng cau mày.
Rằng: « Thôi đã nhỡ keo này,
« Mồi ngon cá lớn ta bày keo kia.
« Gần đây có mụ ba Hề,
« Bán nhang buôn phấn đã lề lối nay.
« Mồm đường ngọt, bụng dao phay,
« Quyến oanh dủ yến thật hay đủ điều.
« Lại thêm thuốc ngải bùa yêu,
« Dẫu rằng người ngọc cũng xiêu gan vàng.

« Ghé qua phân mụ cho tường,
« Tìm phương ép liễu, kiếm đường bẻ bông. »
Mụ rằng: « Thày đã có lòng,
« Thầy ra của, lão ra công dám phiền.
« Miễn là cho có đồng tiền,
« Chấp nơi Lạc-thủy,[26] chấp miền Tương-giang. »[27]
Phú rằng: « Mặc mụ toan lường, »
« Thế thần tôi sẵn, bạc vàng tôi lo.
« Giấy trăm ba tấm giao cho,
« Đặng cười một tiếng, sẽ mua ngàn vàng. »[28]
Mụ đi dò hỏi tính nàng,
Biết người đoan-chính khó đường dủ-dê.
Túng cơ mụ mới tính bề,
Hiếp dan mưu ấy ai dè đặng chăng?
Côn-quang hẹn sẵn hai thằng,
Dình ngày lễ tiệc đại-đằng đón eo.
Kéo xe qua lại rập rìu,
Đi bên một mụ dắt theo mê-phù.[29]
Cuộc đời lắm nỗi rủi-ro,
Bánh xe lên dốc, buồm đò sang sông.
Lòng người sâu hiểm khôn cùng,
Dáo đầu lỗ miệng, gươm trong mép cười.

Tường-Loan phải buổi mát trời,
Tạ từ dưới gối[30] ra chơi thị thành.
Sen vàng một bước một xinh,[31]
Trải xem phong-cảnh thênh-thênh mọi phần.
Phút đâu tới chợ Đồng-xuân,
Chan-chan hóa-hạng, dần-dần người đi.
Hay đâu gặp mụ ba Hề,
Sau lưng lẻn tới, thuốc mê thổi liền.
Sực-sừ như trúng phong-điên,
Hỏi không thấy nói, đứng lên lại ngồi.
Mụ Hề giả bộ sụt-sùi,
Khóc rằng: « Cô mắc bệnh rồi hỡi cô!
« Thôi thôi chớ khá hồ-đồ,
« Thuốc thang đâu ở lộ-đồ này đây? »
Kéo xe thốc thẳng về ngay,
Côn-quang hai đứa ra tài chạy đua.
Liền nhau xe mụ xe cô,
Chủ nhà đầy-tớ ai đồ cho ra.
Ai hay là tổ bợm già,
Đang tay vùi liễu dập hoa cho đành.
Vực nàng vào tới hậu-đình,
Mơ-màng vẫn tưởng là mình chiêm bao.
Thuốc thang cứu giải sôn-sao,
Tỉnh ra mới hỏi chốn nào là đây.

Mụ đà vén mắt bắt tay,
Rằng: « Con biết nỗi nước này cho đâu.
« Giữa đường bèo nước gặp nhau,
« Trong cơn bệnh hoạn nỡ đâu bỏ người?
« Bệnh đâu có bệnh lạ đời?
« Âu là tháng hạn ngày tai chẳng là?
« Âu là nhơn-quả cùng ta![32]
« Chẳng tiên chỉ nẻo cũng ma đưa đường!
« Âu là mệnh bạc hồng-nhan,
« Tiệt hào phụ mẫu, hào quan mới thành.[33]
« Thôi thôi số kiếp đã đành,
« Ở đây nương-náu cùng mình hôm mai.
« Lão đây dưới gối thiếu người,
« Thấy con dung sắc tuyệt đời mà thương.
« Mấy đêm chầu chực thuốc thang,
« Tái sinh ân ấy mấy vàng cho cân.
« Mặt nào bạc bẽo vô ân,
« Thủy chung cho trọn nghĩa nhân mới là. »
Nàng thì con mắt thấy xa,
Nhác coi ý-tứ khác nhà khuê-môn.
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Bỗng không lưới cá chim khôn mắc vào!
Thất cơ khôn nhẽ tính sao,
Rồng thiêng khi nhỡ xuống ao cũng hèn.

Tính sao cho đặng vạn tuyền?
Chấp kinh ta phải tòng quyền mới xong.
Đinh-ninh lòng những dặn lòng,
Cười cười nói nói thung-dung ngọt-ngào,
Rằng: « Con chút phận thơ đào,
« Đất bằng bỗng nổi ba-đào mà kinh.[34]
« Cứu sinh may gặp người lành,
« Nếu không nấm đất cỏ xanh còn gì.
« Non cao biển thẳm nặng nghì,
« Báo ơn đành phận nghĩa-nhi[35] dám từ. »
Mụ đà cười ngất cười ngơ,
Buôn chơi một chuyến lãi dư chút nghìn.
Trong tay đã sẵn cây tiền,[36]
Rượu chà phỉ chí, vòng kiềng xướng thân.
Được tin Phú cũng cả mừng,
Sai mời mụ lại ân-cần hỏi han.
Mụ rằng: « Việc ấy khỏi bàn,
« Kìa thu cúc, đó xuân lan[37] mặn-mà.
« Thử tay cho biết bợm già,
« Một giời xuân, cũng chúa hoa nhuộm mầu.[38]

« Muốn mua ngọc đến Lam-cầu,[39]
« Trăm muôn phải có chiền-đầu[40] mới xuôi. »
Phú rằng: « Trước đã hẹn lời,
« Bạc ngàn xin tạ công người lao-đao.
« Mấy lâu như nắng trông dào,
« Tấm lòng đã thỏa khát-khao những ngày. »
Mụ rằng: « Của đã vào tay,
« Chim lồng, cá chậu khôn bay lối nào?
« Vội gì cháo múc tiền chao,
« Vườn hồng ai lại ngăn rào ong qua.
« Để năm ba bữa gọi là,
« Quen quen rồi sẽ lân-la sự tình. »
Phú đà sửa dáng trao hình,
Quần kia áo nọ sắm-sanh rộn-ràng.
Mừng thầm quốc-sắc thiên-hương,
Cõi trần mà lại có đường gặp tiên.
Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
Giăng chơi khi tỏ, hoa nhìn khi suê.
Khi nào giăng chán hoa chê,
Trả hờn ta sẽ tính bề phụ duyên.

Phòng loan[41] may sẵn gối uyên,[42]
Sông Ngân đợi lúc bắc liền cầu Ô.[43]
Mụ về cười nói lô-lô:
« Khen con yếu liễu thơ bồ tốt duyên.
« Ở lành may lại gặp hiền,
« Cái thân phong trúc[44] cũng phiền mai sau.
« Nền chung-đỉnh, bực công hầu,
« Con quan Tổng-đốc đã giầu thêm sang.
« Thông-ngôn Lưu-Phú là chàng,
« Tài-hoa tót chúng, văn-chương hơn đời.
« Lầu hồng mộ tiếng hoa-khôi,
« Thiếp hồng đưa tới cậy người vấn danh.
« Gấm thêm hoa, lại càng xinh,
« Phúc này thiệt phúc tầy đình chẳng ngoa. »
Nàng rằng: « Mặt sóng trôi hoa,
« Ngây thơ cam chịu xấu-xa trăm phần.
« Nghĩ đều nghĩa nặng muôn cân,
« Kiếp sau trâu ngựa lấy thân đền bồi.
« Hay đâu tác hợp cơ giời,
« Gốc tùng may được một đời gửi thân.

« Vu-qui khất lại một tuần,
« Tô son điểm phấn lấy thân thờ người. »
Ngay tình mụ cũng tin lời,
Ra vào không cấm đứng ngồi không trông.
Nàng đà lẻn gót tường đông,
Nón sao hài tuyết[45] thẳng rong dặm trường.
Mịt-mù điếm cỏ cầu sương,
Phần e đường xá phần thương rãi-rầu.
Bóng ô[46] vừa đứng ngang đầu,
Cửa đông trông đã phút đâu tới nhà.
Ông bà tựa cửa trông ra,
Mặt đà buồn sỉu, ruột đà héo ron,
Từ khi vắng-vẻ thần hôn,
Thăm tìm luống những bồn-chồn chẳng yên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
Bóng chim tăm cá biết nhìn nơi nao?
Thương ôi! chân sóng rạt bèo,
Nắm xương biết gửi chốn nào tử sinh?
Giữa đường chiếc lá lênh-đênh,
Hồng vùi, thắm dập đã đành phôi-pha.
Cửa ngoài ngỏ hé then hoa,
Rõ-ràng má ngọc tay ngà chẳng sai.
Deo mình lạy trước sân Lai,[47]
Khóc than mới kể một hai sự mình:

Vụng suy nên mới mắc vành,
Nỗi mưu hiểm độc, nỗi tình bạc đen.
Nỗi mình thân khuất dụng quyền,
Thoát nơi miệng cọp, băng miền đầu chim.
Ông nghe con nói khóc thầm,
Nửa thương bụng trẻ, nửa căm bụng người:
« Thôi thôi đã thế thì thôi,
« Khiếu-oan công phủ trừ loài ác dan.
« Biết tên biết họ rõ-ràng,
« Thiếp hồng một cánh của tang rành-rành.
« Có giời có đất chứng minh,
« Lưới thưa khôn dễ lọt vành mà ra. »
Tu đơn trình trước án-tòa,
Ngọn ngành kể hết gần xa mọi bề.
Trát đòi thông Phú, mụ Hề,
Bạn hàng mấy ả, phu xe mấy người.
Hỏi qua chúng chứng rạch-ròi,
Mụ Hề hồn lạc máu rời thưa lên.
Rằng: « Tôi chót dại ham tiền,
« Chông gai đành tội gây nên sự này.
« Hiểm sâu cốt tự thày này,
« Đã toan kế nọ lại bày mưu kia. »
Cho hay mấy đứa vô-nghì,
Đến cơn bại-lộ lưỡi lè nói chi.
Quả cân phép nước vô-ty,
Tội danh thủ phạm án phê rành-rành.
Việc nàng hắc bạch phân-minh,
Quan Lưu Tổng-đốc tưởng tình cha con.

Nỗi riêng lớp lớp sóng rồn,
Quyết lòng báo oán, toan môn trả hờn.
Nghĩ mình thế vạn tiền muôn,
Có đâu chịu nhịn đứa con nhà hèn.
Tính bề giục bị xui nguyên,
Ra tay cho biết cường-quyền mặt ta,
Mật mưu với đứa trảo-nha,[48]
Đem hai cây súng qua nhà họ Vương.
Lẻn đem để chỗ sau vườn.
Mật đơn đến thẳng sứ-đường cáo gian.
Lưu thêm ra nói vào bàn,
Sứ-đường nổi giận sấm vang chớp nhoàng.
Quan quân kéo đến bộn-bàng,
Có hai tay súng quả tang rành-rành.
Lưu rằng: « Phép nước chẳng kinh,
« Cả gan dám dấu đồ binh trong nhà.
« Toan mưu quấy rối nước nhà,
« Gươm kia kề cổ thì già tính sao?
Ông rằng: « Sống thác đã liều,
« Lôi đình cũng vậy, búa rìu cũng nên.
« Tấc son thấu đến tầng trên,
« Xét mình ăn thảo ở hiền bấy nay.
« Phố-phường buôn bán qua ngày,
« Giầu sang hai chữ để ngoài lỗ tai.

« Mặc ai danh lợi đua bơi,
« Đai nhân, giầy đạo[49] tước giời phong-lưu.
« Muôn chung[50] phi nghĩa chẳng cầu,
« Học đâu những thói xưng hầu, xưng vương.[51]
« Mảy lông phi nghĩa chẳng màng,
« Học đâu những thói kèo vàng, kèo xanh.[52]
« Mừng nay gặp hội thăng-bình,
« Xa thư bốn biển,[53] hoàn-doanh một nhà.
« Sông, tầu-khói, bộ, hỏa-xa,
« Sáu loài cũng một con nhà giáng sinh.[54]
« Yếu thơ như nước Nam mình,
« Mạnh khôn nên tựa có anh có thầy.
« Đại-đồng trong thế-giới này,
« Súng đồng, đạn bạc có ngày ra tro.
« Miễn sao thật bụng thầy trò,
« Hóa câm khỏi dại, hóa mù khỏi mê.
« Miễn sao anh bảo em nghe,
« Vâng nhời dạy dỗ, hết bề kính thương.

« Non sông muôn thuở vững-vàng,
« Tây Nam là một liên-bang mới là.
« Bảo nhau lấy chữ bình-hòa,
« Khuyên người chẳng hết, dễ ta làm càn.
« Thương cho đồng-loại tương tàn,[55]
« Nỡ lòng dá họa, vu oan nhau đành.
« Khai ngay tôi cứ thật tình,
« Vườn sau để súng rõ rành phao tang.
« Thân già bao quản nắng sương,
« Sống thừa trong chỗ lầm than tiếc gì. »
Lưu nghe bầng mặt cau mi,
Kiếm lời dệt gấm,[56] lựa bề rèn dao![57]
Lời dèm như nước thấm vào,
Cỏ ra lan, ngựa ra hươu cũng lằm![58]
Khép cho mưu loạn án làm,
Viễn-phương phát-phối[59] mười năm hạn kỳ.
Thương nàng chút phận nữ-nhi,
Sót tình máu mủ, nặng nghì biển non.
Cù-lao chưa chút báo ơn,
Gặp cơn biến cố bỏ thân lao-tù.

Bóng thừa còn chút tang du,[60]
Lênh-đênh biết bỏ xương khô xứ nào?
Dâng thơ nào thấy đâu nào![61]
Bán mình mà chuộc, đặng sao bây giờ?
Nghe rằng án ấy đã tư,
Lên tòa Thượng-thẩm còn chờ duyệt-y.
Thày Minh làm việc niết-ty,
Thử qua nói truyện xem y thể nào.
Nghe tường ngành ngọn tiêu-hao,
Giữa đường chàng quyết rút dao cứu người.[62]
Nàng rằng: « Gió vạ bay tai,
« Nhờ tay tế-độ vớt người trầm-luân.
« Nghĩa này biết lấy chi cân,
« Ngậm vành kết cỏ[63] lấy thân đền bù. »
Chàng rằng: « Những bậc trượng-phu,
« Khinh tài trọng nghĩa truyện xưa rành-rành.
« Tiếng oan nghe cũng động tình,
« Thấy nàng con thảo cha lành sót vay.

« Mưu sâu hãm hại người ngay
« Gió tanh xông mũi để bay sao đành.
« Anh-hùng thấy truyện bất-bình,
« Làm ơn nào phải trông mình được ơn.
« Để tôi dùm thảo cái đơn,
« Ngục nghi tới đất, nỗi oan thấu giời.
« Căn do kể hết đầu đuôi,
« Nỗi mình mắc vạ nỗi ai trả hờn.
« Sớm mai đem nộp tòa quan,
« Tay trong đã có tôi toan liệu dùm. »
Phiên tòa xét án quan nam,
Những lời vu-chúc bá-sàm bá-xiên.
Chàng đà biết rõ sự duyên,
Đặt bài lý-đoán ký tên mình vào.
Tóc tơ chẳng sót lẽ nào,
Án ngờ cãi sạch lầu-lầu cho ông.
Làm ra vu-phản tội-đồng,
Tội danh vi-thủ vi-tùng án phê.
Quan Lưu thì bị giáng li,[64]
Người phao súng bị phát đi Cái-bầu.
Đã nên nghĩa cả nhân sâu,
Xa gần khen ngợi, trước sau vẹn tròn.
Ông rằng: « Nghĩa nặng ngàn non.
« Trăm năm xương mục cha còn ghi ơn.
« Lòng cha chưa rõ ý con,
« Châu Trần phỏng có phỉ nguyền hay không? »

Nàng rằng: « Non biển ngàn trùng,
« Làm thân trâu ngựa trả xong cũng là.
« Vả coi dung-mạo tài-hoa,
« Phải trang hào-kiệt, phải nhà thi-thư.
« Nghĩ mình chút phận ngây thơ.
« Sắt cầm biết có sánh vừa lứa đôi. »
Ông rằng: « Nghĩa trúc tình mai,
« Khi nên giời cũng chiều người chẳng không.
« Mau mau sửa soạn tiệc bông,
« Gọi là nhạt-nhẽo tạ công người vàng. »
Rượu giầu ông mới gửi sang,
Lối hoa quét sẵn thỉnh chàng lại chơi.
Nể lòng chàng cũng chịu nhời,
Đào-nguyên chỉ nẻo, Thiên-thai rõ đường,[65]
Ông ra đón rước vội-vàng:
« Cứu tai cổi rối, nhờ chàng trượng-phu,
« Ân này biết mấy cho phu,
« Xin đừng góc ngọc ngỏ phô lòng vàng. »
Chén mời thù tạc quỳnh-tương,
Lão-bà trong trướng dắt nàng ra thưa:
« Hổ sinh chút phận đào thơ,
« Khóa vườn hồng để đợi chờ chúa đông.[66]
« Đất bằng nổi sóng đùng-đùng,
Tưởng đâu gẫy ngọc khô bông còn gì.

« Cám ơn quân-tử nhân-nghì,
« Chữ tòng nó quyết chỉ thề non sông.
« Dám nhờ lượng cả bao dung,
« Rễ bìm được gửi gốc tùng là may, »
Rất nhời chàng vội gạt ngay:
« Ốc ô[67] muôn tạo thương vay bụng người.
« Dấu xưa tôi cũng theo đòi,
« Trọng-Liên xuống bể[68], Tử-Thôi vào rừng.[69]
« Phải người cợt gió cười giăng,
« Thấy bông mà dắp trông chừng bẻ bông.
« Dễ đem vàng đỏ đen lòng,
« Miễn câu thấy nghĩa tính xong thì làm.
« Đã hay báo đáp tình thâm,
« Sử xanh chi để thẹn thầm dấu thơm. »
Ông rằng: « Phận cải duyên kim,
« Giày điều lá đỏ cũng nhằm lứa đôi.
« Người quốc-sắc, kẻ thiên-tài,
« Phong-trần dễ kiếm mấy người tương-tri.
« Tảo tần thiếu kẻ hương-khuê,
« Tấn, Tần hai họ lại bề nào hơn.

« Mái tây hoa mỏi giăng mòn,[70]
« Rưới xin giọt lụy cho hồn tình-chung. »
Hơi xuân thổi ấm lòng đông,[71]
Mắt xanh một liếc má hồng trăm tươi.
Rằng: « Tôi đâu dám phụ người,
« Đá vàng vâng tạc một lời thủy chung.
« Trông vời biển học mênh-mông,
« Ngày xanh còn phải gắng công sách đèn.
« Thất gia chưa được phỉ nguyền,
« E duyên đằm-thắm ra duyên bẽ-bàng,
« Thương sao cho vẹn thì thương,
« Cắm sào nước chẩy, bán hàng chợ chưa.[72]
« Sợ khi hoa ủ giăng mờ,
« Phụ lòng gió đợi mưa chờ với ai. »
Nàng rằng: « Non nước một nhời,
« Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ.
« Rồng mây cá nước duyên ưa,
« Lọ là chăn gối mới ra vợ chồng.
« Nam-nhi mắc nợ tang-bồng,
« Dọc ngang giời rộng, vẫy-vùng bể khơi.
« Đưa nhau lên chốn võ-đài,[73]
« Văn-minh tấn bộ cùng người chen đua.

« Ai đi khắp mặt địa-cầu?
« Phi-châu ai kiếm, Mỹ-châu ai tìm?
« Nguyệt-cầu còn kẻ muốn lên,
« Mở đường Nam-cực, thăm miền Bắc-dương.
« Quanh-quanh trong xóm trong làng,
« Ếch ngồi dưới giếng thấy đường đi đâu.
« Mịt-mù biển chữ rừng nhu,
« Ngọc tìm trong núi, châu mò đáy sông.[74]
« Xin chàng đèn sách ra công,
« Nợ công danh trả cho xong mới là.
« Đừng điều tiếc ngọc tham hoa,
« Chữ tình sẽ gác nỗi nhà một bên.
« Tại đường còn chút xuân huyên,[75]
« Ngọt bùi ấm mát tôi nguyền thế cho. »
Chàng rằng: « Tâm phúc tương phu,[76]
« Nữ-nhi mà cũng chẳng thua anh-hùng.
« Được nhời như cổi tấm lòng,
« Đông, tây, nam, bắc vẫy-vùng ai ngăn. »
Tạ từ nhạc-phụ dời chân,
Trở về thưa với song-thân các lời.
Vũ-công nghe nói vui cười,:
« Đào non con liệu kịp thời vu-qui. »
Chàng rằng: « Nghĩa nặng tình ghi,
« Chiều lòng gọi chút xướng tùy mảy may.

« Cá rồng đương lúc nhẩy bay,
« Thênh-thênh muôn dặm đường mây[77] vội gì.
« Học hành nào đã có chi,
« Khí, cơ, điện, hóa không thầy dạy khôn.
« Nga-Hoàng rứt bậc chí-tôn,
« Còn đi nước khác học khôn nữa là.
« Sớm hôm cam lỗi vắng nhà,
« Xin đi bên nước Lang-Sa học hành. »
Ông rằng: « Xa gối sao đành,
« Đấu thưng[78] thôi cũng đủ vành ấm no.
« Nhà nghèo học-phí ai cho,
« Một năm hao-tổn cũng dư chút ngàn.
« Ví sao được kẻ giầu sang,
« Sẵn tiền sẵn gạo bạc ngàn bạc trăm.
« Học-hành ta vốn cũng ham,
« Tùy gia phong kiệm biết làm sao đây.
« Ở đời ai chẳng muốn hay,
« Bột không, nặn bánh biết ngày nào nên. »
Chàng rằng: « Có chí thì nên,
« Giầu nghèo ai kể bạc tiền mà chi.
« Xưa nay mấy kẻ hàn-vi,
« Chăn trâu, đội củi kém gì công khanh.
« Tay chân cũng đủ nuôi mình,
« Làm công mà học cũng thành thân-danh.

« Xông-pha một tấm nhiệt-thành,
« Dẫu rằng lên thác xuống ghềnh như không.
« Ngủ ăn xin cứ vững lòng,
« Cửa ngoài xin chớ hôm trông mai chờ.
« Sân lan vắng kẻ phụng thờ,
« Đĩa rau bình nước cậy nhờ tiểu-thê.[79] »
Cạn nhời dứt áo ra đi,
Hải-Phòng quay lái, Ba-Lê chỉ đường.
Trông vời giời bể mênh-mang,
Cỏ xanh kìa bãi, mây vàng nọ non.
Bỏ neo ghé bến Sài-Gòn,
Gấm may một bức trên cồn dưới sông.
Ấy ai dẫy cỏ ruồng đồng,
Khai lam phá chướng tưởng công Nguyễn-trào.[80]
Kênh Suy-ê (Suez) ấy ai đào?
Lớn gan thì được, biển nào không thông.[81]

Ấy ai đi giáp một vòng?
Phi-Châu, Ấn-Độ mở thông đường tầu.[82]
Xưa nay mấy bậc hiền hào,
Dầm sương rãi gió biết bao công-trình.
Cỗi người nhờ phước văn-minh,
Để tên thanh-sử,[83] ấy vinh muôn đời.
Mảng đương nhớ cảnh nhớ người,
Tính ngày chốc đã trên ngoài hai mươi.
Mạc-Sây tầu đã tới nơi,
Dạo xem phong-cảnh quê người cũng vui.
Dân khôn nước mạnh hẳn-hòi,
Ngọn cờ bình-đẳng, tiếng còi tự-do.
Trăm khôn nghìn khéo ganh đua,
Mây che nhà máy,[84] gấm phô cửa hàng.[85]
Biết bao báo-quán, thư-phường,[86]
Đại, trung, tiểu-học các trường tư, công.
Học thương-mại, học canh-nông,
Học văn, học luật, học công, đủ trường.
Mừng thầm mở trí rộng đường,
Bõ công ăn gió, nằm sương mấy tuần.

Làm công kiếm chốn tư-thân,[87]
Vào trường dạ giảng[88] dần dần sẽ hay.
Nắng mưa trải mấy năm chầy,
Khí, cơ, điện, hóa một ngày một tinh,
Thuộc da nấu sắt cũng sành,
Đậu khoa Bác-vật nổi danh anh-tài.
Đồng-bang có kẻ quen chơi,
Tên Quyền họ Phạm vốn người giầu sang.
Ỷ mình nhà có ngàn vàng,
Bốc dời quen thói, điếm-đàng hư thân.
Sẵn tiền cha mẹ cho ăn,
Sớm dông ô-sét,[89] tối lần tào-kê,[90]
Học đòi cũng tiếng đi Tây,
Học trường phá của học thầy thả hoang.
Thấy chàng ăn ở bần-hàn,
Rẽ-run không biết phượng-hoàng mà khinh.
Tưởng chàng hạ-sĩ vô-danh,
Ba trăm ai nghĩ có anh thu dùi.[91]

Khóa thi gặp hội đua tài,
Thả ra kẻ béo người gầy biết nhau.
Phân-minh ngọc đá vàng thau,
Mắt trần mới rõ công hầu có ai.
Mạc-bà ghen với Tây-Thi,[92]
Ố-nhân thắng-kỷ lạ chi tình thường.
Quyết mưu ám-tiến[93] hại chàng,
Sẵn tiền trong túi mướn phường côn-quang.
Bắt theo hút, đón ngang đường,
Lưỡi dao viên đạn phi tang mạng người.
Rủi may âu cũng nực cười,
Cho hay đạo-tặc có người lương-tâm.
Côn-quang mấy đứa bàn thầm,
Có đâu ta nỡ hại lầm người ngay.
Chi bằng nói lại chàng hay,
Cho chàng đi khỏi chốn này là xong.
Phần mình đã chẳng mất công,
Phần chàng cũng được thoát vòng chông gai.
Chàng nghe rõ biết đầu đuôi,
Bất-nhân nghĩ nỗi cùng nòi lại thương.
Sá chi kiến cỏ gà chuồng,
Anh-hùng đâu với những tuồng trẻ ranh.
Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh,
Tiện đường ta thử dạo thành Luân-đôn.

Mấy lâu nghe những tiếng đồn,
Ăng-lê là xứ dân khôn nước giầu.
Văn-minh chói rọi hoàn-cầu,
Cỏ cây cõi thọ, xe tầu cảnh tiên.
Vái cùng thiên-sứ có thiêng,
Nắm hoa xin vãi khắp miền năm châu.[94]
Dắp toan chơi trải địa-cầu,
Nửa rương bút giấy, một bầu non sông.
Hải-quân nhân thiếu người dùng.
Họa-đồ lãnh chức làm trong đội tầu.
Đi cùng một cõi Phi-châu,
Mấy khơi cũng vượt, mấy bầu cũng qua.
Nắng rừng mưa biển xông-pha,
Gió đông buốt ruột cát già sém chân.
Bể giời muôn dặm một thân,
Cùng đi mấy kẻ lần-lần bệnh vong.
Độc thay! lam-chướng ngàn trùng,
Nước sâu quăng xác, hang cùng bỏ xương.
Lấy ai bầu-bạn tha-hương,
Tay cầm bàn địa, tay mang ống dòm.
Vui cùng mây sớm giăng hôm,
Hươu rừng rước khách, chim non chào người.
Đắng cay nếm đủ mọi mùi,
Lá gan sắt đá dễ mài cho phai.

Đường xe lửa cắm xong rồi,
Hành-trình tính đã chốc ngoài hai năm,
Bệnh đâu bỗng nổi ầm-ầm,
Mình ve hao xác, ruột tầm héo quăn.
Nhuốm đau trải đã mấy tuần,
Sữa ăn không ngọt, súp ăn không bùi.
Sớm nưng tối đỡ nào ai;
Nào người cơm cháo, nào người thuốc thang.
Mới hay trung tín một đường,
Dẫu rằng mọi rợ cũng thương người lành.
Hắc-man mấy kẻ chân-thành,
Hôm mai chầu chực cơm canh đợi chờ.
Đi tìm cho được đốc-tơ,
Đường đi kể tháng, dặm xa chốc ngàn.
Quan thầy khám bệnh rõ-ràng,
Rằng: « Vì nóng lắm sưng gan đấy mà. »
Soạn đồ dao kéo mổ ra,
Máu bầm thịt nát rửa đà sạch lâng.
Chỉ vàng khâu lại, bó băng,
Trong ba tuần lễ ngủ ăn đặng thường.
Thuốc tiên bổ dưỡng người vàng,
Từng đau đớn lại khang cường hơn xưa.
Luân-Đôn thẳng chỉ ngọn cờ,
Đường về vừa một tháng thừa tới nơi.
Lênh-đênh góc biển chân giời,
Thấy bờ mới biết là người dương-gian.
Bản-đồ dâng trước Anh-hoàng,
Mền-đay nhất-đẳng thưởng chàng có công.

Chàng rằng: « Mắc nợ tang bồng,
« Tuổi xanh gặp hội quyết lòng trả xong.
« Không vì lợi, chẳng vì công,
« Thân sau bia đá, tượng đồng mặc ai.
« Mỹ-châu xin tới phen này,
« Thả ngang bể lớn[95] vòng về biển tây.[96]
« Bao nhiêu khoáng-sản,[97] thổ-nghi,[98]
« Xét xem tường tất, biên ghi rõ ràng.
« Gọi là giúp kẻ công thương,
« Sau này biết chỗ kiếm đường hỏi han. »
Tiễn hành một chén quan-san,
Mỹ-châu chỉ nẻo băng ngàn vượt sang.
Tây-cầu ai khéo mở mang?
Khen người vượt bể có gan tìm tòi.[99]
Thiên-nhiên huê-lợi hẳn hòi,
Ngàn bày súc sản, năm loài mỏ kim.
Qua châu Bắc, lại châu Nam,[100]
Quản bao nắng rãi sương dầm một thân.
Đã sinh ra kiếp phong-trần,
Gian-nan cho trải nhiều lần mới hay.

Vơi-vơi bể rộng giời dài,
Thuận-phong một lá,[101] vượt khơi Thái-bình.
Bão đâu bỗng nổi thình-lình,
Gió rung gẫy lái, sóng dềnh vỡ be.
Đương khi bất ý chẳng dè,
Khôn nhanh cách mấy cũng e thua giời.
Lênh-đênh chiếc lá giữa vời,
Tấm thân đã bỏ làm mồi giao-long.[102]
Rủi may âu cũng lạ-lùng.
Cù-lao bỗng thấy khi không nổi liền.
Dấn mình lội tới leo lên,
Lơ-mơ nào đã biết miền chi đây.
Hồn mai dở tỉnh dở say,
Lim-dim mở mắt mới hay lưng kềnh.[103]
Lớn đâu có lớn dị-hình,
Chim rừng, cá bể; giời sinh thật kỳ.
Vật mà có tính từ-bi,
Sinh thai, thở phổi[104] cũng y như người.
Ơn cho thoát chốn dập-dồi,
Cơm ăn nước uống cậy ai bây giờ.
Buồn trông mây trắng xa xa,
Cố-hương đâu đó là nhà đôi thân.

Đình-vi[105] cách mấy thu-xuân,
Tóc đầu khi đã lần-lần điểm bông.
Buồn trông lá chẩy xuôi giòng,
Đề thơ nhớ kẻ vườn hồng đợi xuân.[106]
Non non nước nước khơi chừng,
Ái ân hai chữ ai đừng quên ai.
Bơ-vơ dở khóc dở cười,
Mênh-mông dưới nước trên giời một ta.
Tầu đâu trông thấy nẻo xa,
Treo cờ chữ thập nghĩa là cứu tai.
Chủ tầu truyền ghé lại coi,
Đem suồng tới rước, quăng chài xuống quơ.
Lên tầu thuốc uống lửa hơ,
Kẻ đem cơm cháo người đưa áo quần.
Một ngày một mạnh dần dần,
Hỏi ra mới biết tầu tuần Ăng-lê.
Tiêu hao kể hết mọi bề,
Giời khi giông tố, thân khi hiểm nghèo.
Súm-quanh kẻ hỏi người kêu,
« Quê hương đâu tá rạt siêu thể này. »
Họ tên chàng mới nói ngay,
Chức quan, nghệ-nghiệp ngỏ bày một hai.

Tiếng đồn như sấm vang tai,
Có công người trọng, có tài người thương.
Quan tàu thi lễ vội-vàng;
« Mừng ông thoát khỏi tai nàn tự đây.
« Anh-hào dễ có mấy tay,
« Giời đâu nỡ phụ những người hảo tâm.
« Lợi dân ích quốc một niềm,
« Sửa công đức ấy muôn năm còn nhờ.
« Công danh gặp hội đương vừa,
« Sinh-linh trông đội phương dư còn nhiều. »
Hoan-nghênh cốc rượu hoa kèo,
Mũi tầu chỉ thẳng lối vào Luân-đôn.
Khen cho dạ sắt lòng son,
Chẳng phai vì nhuộm, chẳng mòn vì nung.
Vời cao bay bổng cánh hồng,
Xông pha bao quản muôn trùng nước mây.
Trải qua biển nọ non này,
Địa-cầu vừa bốn năm chầy khắp nơi.
Bản-đồ khen khéo vẽ-vời,
Hành-trình lại đặt mọi bài địa-dư.
Tang-bồng đã toại chí xưa,
Lòng quê muôn dặm bơ-vơ thẫn-thờ.
Sân Lai cách mặt nghiêm-từ,
Tính đà mười một năm thừa đến nay.

Cửa Thần treo mũ đi ngay,[107]
Non quê theo hút ngọn mây Thái-hàng.[108]
Tâng-bầng sắm sửa qui-trang,[109]
Nhổ neo đốt máy băng ngàn dặm khơi.
Nhớ thân tấc dạ bồi-hồi,
Sóng đào phút đã tới nơi Nhị-hà.
Kể từ khi bước chân ra,
Xuân huyên ngày một thêm già vóc xương.
Sớm ngon tối ngọt sẵn-sàng,
Tảo-tần cậy có một nàng nghi-gia,
Mừng thầm dâu thảo phước nhà,
Cửa Trình sân Khổng[110] con ta vững lòng.
May mà đèn sách nên công,
Hiển-dương[111] âu cũng đẹp lòng đôi thân.
Người lành hay mắc vận truân,
Cát-thần được mấy, hung-thần hiếm chi.
Phạm-Quyền từ ở Tây về,
Chắc rằng Minh đã hồn lìa dương-gian;

Mon-men phụ-ấm làm quan,
Dư thần dư thế, có ngàn có muôn;
Tham tài hiếu sắc cũng môn,
Giăng hoa là nghiện, dâm-bôn là nghề;
Thấy nàng nhan-sắc mà mê,
Vẻ gì chẳng dặm, nết gì chẳng yêu;
Quyến anh dủ én đủ điều.
Khôn dời gịa đá, dễ siêu gan vàng;
Lửa tâm càng nóng càng cuồng,
Kiếm phương vầy ngọc, tìm đường bẻ hoa;
Mưu cùng mấy đứa trảo-nha,
Lén đem cơm rượu để nhà họ Vương.
Báo đoan về bắt quả tang;
Nỗi oan họa khiếu thiên-đàng nhưng xa.
Thương thay! cha yếu mẹ già,
Một mình lặn-lội, cửa nhà trong veo,
Đất bằng bỗng nổi sóng đào,
Tầy đình vạ ấy biết sao bây giờ.
Một là tiền phạt phải lo;
Hai là chịu án làm tù khổ công.
Xanh kia thật khéo thử lòng,
Bầy ra lắm truyện long-đong nực cười.
Muốn kêu một tiếng hỏi giời,
Ấy ai đặt cạm ấy người vào trong?
Dắp tâm chẹt lúc người cùng,
Phạm-Quyền mới ngỏ gạn-gùng nỗi riêng;
Đưa tin tán-tỉnh thuyền-quyên:
« Người ngay mà gặp cơn đen xót lòng.

« Chữ rằng: tế nạn tuất cùng;
« Thương nhau sẵn bụng giúp công giúp tiền.
« Một tình, hai nợ, ba duyên,
« Thịt xương cũng gửi, trăm nghìn quản chi.
« Yêu nhau chữ « vị » là vì,
« Khuyên nàng chọn lấy chữ « tùy » là theo. »
Nàng rằng « Cảm đội đã nhiều,
« Với tay vớt lấy cánh bèo trôi sông.[112]
« Chỉn e phận gái chữ « tùng »,
« Một đời có lẽ hai chồng được sao.
« Chót lời kim cải thâm giao,
« Mây xanh ngoài bể, má đào trong gương.
« Đinh-ninh giữ ngọc gìn vàng,
« Tổ-tiên hương khói, cao-đường sớm khuya.
« Nay dù phượng rẽ loan chia,
« Con người thất tiết ra gì mà ưa.
« Quá yêu liễu yếu đào thơ,
« Mặt này không thể đeo mo cõi đời.
« Có chăng rộng lượng thương người,
« Lúa khô nhờ được một vài đám mưa.[113]
« Ơn sâu báo đáp cho vừa,
« Ngặm vành kết cỏ xin chờ mai sau. »
Cá khôn khó dử mồi câu,
Lồng son cánh sáo bồ-câu nọ thèm.[114]

Miệng mèo còn mỡ còn ham;
Ong qua bướm lại tái tam bao lần.
Rằng: « Nàng vụng tính lần-thần,
« Người đi muôn dặm chốc ngần ấy năm.
« Cù-lao chín chữ cao thâm,
« Dửng-dưng cũng nọ đem tâm đoái-hoài;
« Vẻ chi một hạt mưa rơi,[115]
« Đón đưa hiếm kẻ mày ngài mặt hoa;
« Giang-hồ vui thú phương xa,
« Để ai hoa úa giăng tà vì ai.
« Chữ rằng: xuân bất tái lai,
« Bo-bo chẳng kẻo cho người phụ ta
« Vả chăng đương lúc biến nhà,
« Mẹ già ai đỡ, cha già ai cưu?
« Việc đâu sét đánh ngang đầu.
« Tội tình như thế biết cầu cứu ai?
« Tùng quyền phải liệu tính bài,
« Gửi thân cửa phúc, sánh đôi bạn vàng;
« Phần mình sung-sướng vẻ-vang;
« Phần nhà cũng sẵn nơi nương chốn nhờ;
« Ắt là tai thoái nạn trừ,
« Trong ngoài êm-ấm, cửa nhà phong-quang.
« Chữ « trinh » há phải một đường;
« Chấp kinh cứ nệ đạo thường sao nên.
« Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
« Khu-khu tiểu-tiết giữ-gìn mà chi.

« Thủy-chung trọn cả nhân nghì;
« Tình sông nghĩa bể thẹn gì với ai.
« Chẳng hơn bèo rạt mây trôi,
« Bơ-vơ đầu bạc,[116] thiệt-thòi tuổi xanh.[117]
« Một nhà long-lở tan-tành,
« Bó tay mà chịu có đành lòng không? »
Nàng rằng: « Đã quyết một lòng,
« Đá mòn sông cạn chữ « đồng » dám thay.
« Thương nhau tiền gạo cho vay,
« Chẳng thương, nắng đọa mưa đày cũng cam.
« Nói chi những truyện bá-sàm,
« Nghe càng lộn ruột, nghĩ thêm cực lòng. »
Nghĩ người sâu hiểm lạ-lùng,
Dắp toan mua rẻ cái lòng kiên trinh.
Thế mà ân, thế mà tình,
Thế mà làm phúc làm lành nỗi chi.
Nghĩ mình vận túng cơ nguy,
Trăm khôn cũng chịu cái uy thần tiền.
Lênh-đênh mặt sóng con thuyền,
Cậy ai tế-độ qua miền bể khơi?
Ai mà trượng nghĩa khinh tài?
Ai mà khảng-khái giúp người công không?
Xa xôi muôn dặm cánh hồng,[118]
Nay đây mai đó dễ hòng âm-hao!

Băn-khoăn ruột rối như cào,
Biết đâu mà ngỏ thấp cao sự lòng?
Vũ-Minh có bạn đồng-song,[119]
Họ Trương tên Nghĩa anh-hùng trứ-danh.
Kim lan[120] tình cũ đinh-ninh,
Thấy ai cấp-nạn mà mình xót-xa.
Giốc bao thu nhặt của nhà,
Giúp nàng nộp phạt tại tòa xong xuôi.
Nỗi nàng tai nạn qua rồi,
Cảm ân mới hỏi nào người thi ân.
Ân này biết lấy chi cân,
Tử sinh cốt nhục bội phần cưu-mang.
Tưởng đành nát ngọc phai hương;
Dưới đời ai kẻ bán vàng mua nhân.
Hay đâu Pháo Quản[121] tình thân,
Vốn tương-tri với lương-nhân[122] những ngày.
May sao may thật là may!
Nếu không chết đắng chết cay còn gì!
Siết bao giạ tạc lòng ghi,
Tạ lòng Minh cũng gửi về bức thư.
Được thư Trương lại đáp từ,
Rằng: « Trong bạn hữu từ xưa thế thường.

« Đôi ta nghĩa thiết đá vàng,
« Cùng xe Tử-Lộ,[123] chung giường Từ-sinh.[124]
« Muôn thu gương sáng rành-rành,
« Chia tai sẻ nạn giao-tình thủy chung.
« Khuyên ai muôn dặm tang bồng,
« Thất gia xin chớ bận lòng làm chi.
« Vững tâm trao trí dồi nghề,
« Nặng bề công nghĩa, nhẹ bề riêng-tây.
« Việc nhà đã có em đây,
« Ngoài êm trong ấm xin thay bạn hiền. »
Việc nàng thu sếp hồ yên;
Ai xui lắm bước truân-triên gập-gành.
Đùng-đùng nổi giặc thiên-binh,
Cháy thành đến kẻ hiền lành vạ lây.
Dịp đâu may khéo là may,
Cho người ác hiểm ra tay độc ngầm.
Phạm-Quyền vẫn dắp cơ-tâm,
Thuyền buôn ngấp-nghé vẫn nhằm bẻ hoa;[125]
Biết nàng hiếu trọng tình đa,
Lẽ nào máu mủ ruột-già không đau;

Bẻ măng thừa gió mau mau,
Vu cho thông-phỉ bỏ tù Vũ-ông.
Xanh kia thật có nỡ lòng!
Chửa xong nạn ấy đã trùng nạn kia.
Thôi đành vô kế khả thi,
Kêu van hết lẽ, nằn-nì hết nơi.
Quyền rằng: « Án tiết rạch-ròi,
« Ai mà cứu nổi con người nguyên-hung.
« Nàng đà biết đến ta không?
« Dư tiền dư thế tính xong việc này.
« Một điều nhắn-nhủ nàng hay,
« Thương ta, ta cũng liệu bài thương cho;
« Hoài công giữ tiết bo-bo,
« Khổ thân mà có ăn thua truyện gì.
« Ngu đâu ngu lạ ngu kỳ,
« Bó tay ngồi đợi Tử-Kỳ[126] tới nơi.
« Thương ai tóc bạc da mồi,
« Trong lao vò-võ trông người mất tăm.
« Trông ai tháo cũi mở hầm,
« Mà ai há miệng còn nằm đợi ho.
« Nhỡ khi ván đã đóng đò,[127]
« Thôi thôi hết cấp khôn lo vẹn tuyền! »
Lời đâu ép phận nài duyên,
Càng nghe càng gợi lửa phiền trong tim.

Xót thay! bẩy nổi ba chìm,
Cánh bèo siêu dạt biết tìm nơi nao?
Vẻ chi một chút má đào,
Sương dầu nắng dãi mấy tao hỡi trời!
Giận ai thả bẫy sô người,
Làm cho xương rã thịt rời như không.
Xa-xôi ai có thấu lòng,
Thờ cha kính mẹ đạo tòng dám sai.
Đều đâu gió vạ bay tai,
Xuân xờ-xạc gốc, huyên tơi-tả màu.
Bóng hồng tăm cá biết đâu,
Âm thư lạc nẻo xe tầu cách nơi.
Ruột tơ vấn-vít trăm hồi,
Đường kia nỗi nọ bời-bời ngổn-ngang.
Ân-nhân nhớ đến chàng Trương,
Mới đem tâm sự ngỏ tường một hai.
Trương nghe xiết nỗi rụng rời,
Tuốt gươm toan những vạch trời kêu lên:
« Người sao ăn thảo ở hiền,
« Bỗng không bay buộc xui nên nỗi này.
« Tầng trên thăm-thẳm có hay,
« Ấy ai gắp lửa bỏ tay hỡi trời!
« Gia tình nghĩ tới bạn tôi,
« Nước non muôn dặm quê người xa-xôi.
« Ngọt bùi đã vắng hôm mai,
« Lại thêm cái vạ tày trời đến nơi.
« Thương thay tóc bạc da mồi!
« Chóng mang gông đóng ai người xót vay?

« Cửa nhà cậy có một tay,
« Cơm rau canh đậu loay-hoay tháng ngày.
« Khổ đâu khổ tới nỗi này,
« Cha trong ngục tối, chồng ngoài bể khơi.
« Chữ rằng tuất nạn phân tai,
« Người trong một giống một nòi với nhau.
« Huống chi tình nghĩa giao du,
« Đá vàng đã hứa trước sau một lời.
« Chứng minh có đất có trời,
« Dẫu rằng cách mặt khuất lời dám sai.
« Tiếng oan kêu đến tận trời,
« Quyết thân công-lý cứu người vô cô. »[128]
Lo toan một món tiền to,
Tạm đem bảo lĩnh khất cho ông về.
Tóc tơ kể hết mọi bề,
Một đơn khổ khiếu dâng quì cửa quan.
Đèn trời soi thấu nỗi oan,
Án ngờ ông đã sạch tan làu-làu.
Căm thay! những đưa cơ-cầu.
Vu oan giá họa toan mưu hại người.
Anh-hùng nghĩa-phẫn khôn nguôi,
Giả hờn Trương quyết ra tài khử gian.
Dò la khắp chốn dân gian,
Tham tang vớ được tội quan rành-rành.
Kẻ khai người chứng phân-minh;
Thế thần khôn nỗi lọt vành phép vua.

Khép cho sáu tháng tội tù,
Cách quan bãi chức nặc thu văn bằng.
Đương ông bỗng xuống làm thằng,
Tự đây thôi hết lung-lăng tùy-tòe.
Hết oai phúc, hết hăm-he,
Hết mưu nham-hiểm, hết nghề dệt thêu.
Hết mong Đồng-tuớc khóa Kiều,[129]
Chia duyên rẽ lứa cướp yêu vợ người.
Truyện đời nghĩ cũng nực cười,
Hại nhân nhân hại đạo trời chỉn ghê.
Đáng cho những kẻ vô-nghì,
Đem lòng hiếu-sắc tính bề ách nhân.[130]
Khen thay vẹn nghĩa toàn nhân,
Bạn đâu có bạn tương thân ruột-già.
Tiếng khen thơm nức gần xa,
Dấu xưa Quách-Giải Chu-gia[131] thẹn gì.
Một nhà trông cậy phù-trì,
Mấy phen gấp khúc mọi bề cưu mang.

Yên lòng du-tử[132] bốn phương.
Tang-bồng phỉ chí gói rương lại nhà;
Cúi đầu lạy trước thềm hoa,
Lời tan hợp, truyện gần xa thiếu gì.
Tạ lòng tri-kỷ hiền-thê,
Thờ cha kính mẹ chi-trì một tay;
Tạ ơn ngọc-hữu cao dầy,
Đá mòn sông cạn dạ này dám thay.
Trúc mai thỏa cuộc xum vầy,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Phòng lan trò truyện thung-dung,
Tiền-đồ tổ-quốc chệnh lòng băn-khoăn.
Giang sơn ai chẳng có phần,
Mày râu chia với thoa quần gánh chung.
Trị-sinh[133] đầu việc nông công,
Lối buôn phải biết thông-đồng mọi nơi;
Đứng lên ra sức ra tài,
Trên nhà nước giúp, dưới người nước tin.
Hội khai-khoáng,[134] hội khẩn-điền,
Nào nhà cơ-khí,[135] nào thuyền xuất dương.
Tiền-nong sổ sách có nàng,
Trông nom coi sóc đã chàng tay quen.

Lợi-nguyên ngày một dưng lên,
Công-ty vốn một lời nghìn biết bao.
Của chung khi đã dồi-dào,
Đặt nhiều học-xá, dựng nhiều thư-lâu,
Dân khôn mà nước lại giầu,
Hỏi công xướng thủy làm đầu tự ai?
Mới hay Nam-quốc sinh tài,
Rồng tiên không phải giống người hèn ươn.
Giai khôn gái cũng khác thường,
Một đôi giai-ngẫu[136] để gương muôn đời.

  1. Nhà thường đời nào cũng có người học-hành đỗ-đạt.
  2. Cá vượt qua được ba lớp sóng nhẩy lên núi Võ-môn thì hóa thành rồng, ví với học trò thi đỗ.
  3. Tức là ty-sở coi về việc hình án.
  4. Hai họ nhà quan về đời Tấn bên nước Tầu.
  5. Hai người đại-phú về đời Tấn bên nước Tầu.
  6. Nói bóng là đẻ con gái.
  7. Mắt trong như nước mùa thu.
  8. Lông mày xanh như một vệt núi mùa xuân.
  9. Nói sắc đẹp, có câu cổ-thi: cười một tiếng làm nghiêng thành người ta, cười hai tiếng làm đổ nước người ta.
  10. Hai người con gái tài-hoa: Tạ-đạo-Uẩn người về đời Tấn, Ban-tiệp-Thư người về đời Hán bên Tầu.
  11. Người tài-nữ đời Đường bên Tầu, có bài biểu dâng vua Đường.
  12. Người tài-nữ đời Lục-triều bên Tầu có bài hồi-vân dệt vào gấm.
  13. Bậc đàn-bà con gái nề-nếp sang trọng.
  14. Đến tuổi lấy chồng.
  15. Nhận công việc làm vợ.
  16. Nói bóng là tưởng mến người con gái đẹp, dùng điển cũ: ông Tống Tương-vương nằm chiêm-bao thấy người thần-nữ nói thiếp ở dưới núi Vu-sơn, sáng làm mây, chiều làm mưa.
  17. Là bịnh mê gái, Vua Tề-Tuyên xưa có bịnh hiếu sắc.
  18. Nói bóng là nếu không gặp người xứng đáng thì đành không lấy ai, dùng điển cũ: ông Bá-Nha xưa gẩy đàn chỉ có Chung-tử-Kỳ là tri-âm, sau Tử-Kỳ chết, đành ôm đàn cầm suốt đời không gẩy cho ai nghe nữa.
  19. Nghĩa là nuôi cha mẹ khi sống.
  20. Tức là vợ cũ.
  21. Nói bóng là kén vợ, như chim phượng trống đi khắp bốn bể mà tìm mái.
  22. Điển cũ: Vua Hán-Quang-Vũ xưa mê nàng Âm-Lệ-Hoa đẹp, nói: nếu được nàng ấy thì sẽ để trong nhà vàng.
  23. Vợ chồng bỏ nhau.
  24. Điển cũ: ông Lương-Hồng lấy vợ là Mạnh-Quang xấu lắm, nhưng vẫn kính mến nhau, bữa ăn nào cũng nâng án đến ngang lông mày mời nhau cung kính lắm.
  25. Điển cũ: Vua Hán-Quang-Vũ ép Tống-Hoằng bỏ vợ cũ lấy Hồ-Dương Công-chúa; Tống-Hoằng không chịu.
  26. Nơi có người thần-nữ ở. Điển trong Sở-từ.
  27. Ở miền Tương-giang có người đẹp. Điển trong Cổ-văn.
  28. Câu thơ cổ: người đẹp cười một tiếng đáng giá ngàn vàng.
  29. Tức là bùa mê.
  30. Câu cổ: con ở liền dưới gối cha mẹ.
  31. Điển cũ: vua Trần hậu-chúa khen một người cung-phi đẹp, nói: mỗi bước chân nàng bước nẩy một cái hoa sen vàng.
  32. Nghĩa là có duyên nợ với nhau từ kiếp trước.
  33. Cách lấy số chia ra có hào ứng vào cha mẹ, hào hứng vào quan-lộc nói hào cha mẹ bị tiệt mà hào quan ộc tốt Nghĩa là số lìa cha mẹ mà được hiển vinh.
  34. Nói bóng là đương khi không mà mắc nạn.
  35. Là con nuôi.
  36. Điển cũ: xưa có một mụ dầu nuôi được một người kỹ-nữ nhan-sắc tuyệt trần, kiếm tiền của bọn làng chơi không biết bao nhiêu mà kể, nên gọi là « tiền thụ tử » 錢 樹 子 nghĩa là ả cây tiền.
  37. Nói bóng là hai bên vừa đôi phải lứa với nhau.
  38. Nói bóng là bao nhiêu con gái đều dỗ dành dủ dê được, như hết thẩy hoa mùa xuân đều tự chúa hoa nhuộm mầu gì cho thì nhuộm.
  39. Điển cũ: xưa có một nhà văn-sĩ đi thi ngang đường gặp người con gái nhà hàng ở cầu Lam người đẹp, rồi sau thành vợ chồng.
  40. Bọn làng chơi thưởng tiền cho các kỹ-nữ, gọi là tiền chiền-đầu. Điển trong bài Tỳ-bà-hành.
  41. Là phòng riêng của hai vợ chồng.
  42. Là gối có thêu đôi con uyên-ương đâu đàn lại với nhau, ngụ ý hai vợ chồng hòa hợp nhau cũng như thế.
  43. Tức là cưới vợ về. Điển cũ: Khi Chức-Nữ đi tới với Khiên-Ngưu thì bao nhiêu chim quạ đậu liền lại thành cầu trên sông Ngân làm đường cho Chức-Nữ đi.
  44. Là đuốc ở ngoài gió, ví với cảnh già sống chết không biết lúc nào.
  45. Cảnh đi đêm, đầu đội sao làm nón, chân đạp tuyết làm hài.
  46. Là bóng mặt trời.
  47. Sân chỗ cha mẹ ở. Điển cũ: ông Lão-Lai xưa mặc áo ngũ-sắc múa ở trước sân làm vui cho cha mẹ.
  48. Là đầy tớ thân.
  49. Lấy nhân làm đai đeo luôn trong mình, lấy đạo làm giày đi luôn ở chân, nghĩa là ở nhân làm đạo.
  50. Ăn lộc muôn chung thóc; theo thời xưa như thế là tước lộc cao trọng lắm.
  51. Làm giặc tự xưng mình là hầu là vương.
  52. Tụ đảng ăn cướp như tụi Thiên-địa-hội trong Lục-tỉnh có đảng kèo vàng, đảng kèo xanh,
  53. Là giao-thông tiện lợi, bốn bể cùng đi một thứ xe, cùng viết một thứ chữ.
  54. Tuy chia ra sáu giống người mà cùng là con trời giáng sinh cả.
  55. Cùng người một nòi giống mà tàn hại lẫn nhau.
  56. Nói thêm thắt thêu dệt mãi cho thành tội người ta như dệt gấm.
  57. Khép vào lẽ này lẽ khác cho thành tội người ta như rèn mãi cho thành dao.
  58. Nói dèm pha người ta, ngay bảo gian, hay bảo dở cũng như cỏ mà bảo là lan, ngựa mà bảo là hươu.
  59. Đem đầy đi xứ xa.
  60. Nói bóng là tuổi già, như bóng mặt trời về tối, chỉ còn le-lói một tí ở trên ngọn cây tang-du.
  61. Điển cũ: nàng Đề-Oanh người đời Hán, dâng thơ xin tha tội cho cha.
  62. Nói bóng là cứu giúp người dưng trong cơn gấp khúc. Câu cổ: giữa đường gặp truyện bất-bình, rút dao ra mà giúp cho người bị nạn.
  63. Điển cũ: con chim được người ta cứu sống cho, ngậm cái vành vàng đến tận nhà giả nghĩa. Chết rồi kết thành người cỏ đánh kẻ thù giùm cho ân-nhân.
  64. Là giáng chức mà phải li nhiệm đi chỗ khác. Chữ trong luật.
  65. Đào-Nguyên Thiên-Thai là chỗ nàng tiên ở. Nói bóng là đi đến nhà nàng.
  66. Nói bóng là con gái cấm cung đợi kén rể,
  67. Nói bóng là thương mà gả con gái cho. Câu cổ: ÁI ỐC CẬP Ô, 愛 屋 及 烏 nghĩa là yêu cái nóc nhà mình thành ra yêu lây đến cả con quạ đậu trên nóc nhà; ví với người yêu con gái thành ra yêu cả rể.
  68. Điển cũ: Ông Lỗ-trọng-Liên cứu khỏi hoạn-nạn cho nước Tề, khước được quân Tần, rồi không chịu phong thưởng, bỏ xuống biển.
  69. Điển cũ: ông Giới-tử-Thôi theo giúp ông Tấn Văn-công khi hoạn nạn, rồi không nhận quan tước, bỏ vào rừng.
  70. Nói bóng là người con gái giốc lòng chờ đợi tình-nhân. Điển trong Tây-xương-ký. Tây xương 西 廂 là mái tây.
  71. Nói bóng là lời êm-ái siêu lòng kiên-quyết. Lòng đông là cái lòng lạnh nhạt như mùa đông.
  72. Nói bóng là người con gái chờ đợi nhỡ thì.
  73. Nghĩa chính là cái nơi sân khấu ra trò, nghĩa bóng là cái nơi thi tài đua khôn với thiên-hạ.
  74. Nói bóng là nghiên cứu những nghĩa lý tinh-vi, tìm tòi những trí-thức cao rộng.
  75. Nghĩa là cha mẹ còn mạnh khỏe.
  76. Lòng bụng phu hợp nhau.
  77. Nói bóng là con đường kiến công lập nghiệp của đời người còn dài.
  78. Nghĩa là cái lương lọc nhỏ-mọn của những người làm chức bé.
  79. Là vợ mình.
  80. Các chúa trào Nguyễn trước vào mở mang khai thác trong đất Thủy-Chân-Lạp thành là Nam-Kỳ lục tỉnh bây giờ.
  81. Ở Đại-tây-dương với Ấn-độ-dương cách một cái eo đất, làm cho hai bể không thông nhau; ngày xưa bên Âu-châu muốn đi sang Á-châu không đi được đường ấy, phải đi vòng đường xa hơn nhiều; người Pháp người Anh mới họp nhau lập cái công-ti đào cái eo đất đó cho thông đường hai bể, gọi là kênh Suy-ê; từ đấy ở Âu-châu đi sang Á-châu được gần hơn trước. Đường tầu ở ta sang tây đi qua kênh ấy.
  82. Ngày xưa người Âu-châu chưa biết có Phi-châu với Ấn-độ, chưa tìm ra đường đi sang Á-châu, nhờ có mấy nhà buôn mạo-hiểm thả tầu đi lùng quanh mãi tìm được đến mũi bể Hảo-vọng-giác mà biết đường sang Ấn-độ lần tới Phi-châu với Á-Châu.
  83. Là sử xanh chép những công việc người đời trước.
  84. Nhà máy nhiều lắm kín khít cả như là mây che.
  85. Cửa hàng bày biện đẹp san-sát như là gấm giải
  86. Cửa hàng bán sách.
  87. Chỗ nương tựa dung dưỡng được thân mình.
  88. Trường dạy học ban đêm.
  89. Quán rượu. Tiếng Lục-tỉnh, bởi chữ Pháp Au Cercle nói chệch ra.
  90. Nhà thổ đĩ. Tiếng Lục-tỉnh, cũng như tiếng lầu xanh, tiếng nhà chứa ngoài Bắc.
  91. Nghĩa là trong một đám đông không biết có ai là người giỏi. Điển cũ: ông Mao-Toại ở trong đám thực-khác nhà ông Bình-Nguyên-quân kể những ba trăm người, không ai biết mình là giỏi; gặp lúc ông Bình-Nguyên-quân có việc cấp nạn, ông Mao-Toại bèn đứng ra tự tiến-cử mình là làm nổi việc; ông tự ví mình như cái dùi đã thu kín cái lưỡi sắc trong mấy năm trời, nay tuốt ra tỏ cho chủ biết là hữu dụng.
  92. Mạc-bà là người đàn-bà xấu nhất. Tây-Thi là người con gái đẹp có tiếng.
  93. Nghĩa chính là cái tên bắn ngầm; nghĩa bóng là mưu hại ngầm kẻ khác.
  94. Nghĩa là lạy trời ban phát cái hạnh-phúc văn-minh cho khắp cả mọi nơi đâu cũng được như ở Ăng-Lê cả. Vua Nã-phá-Luân nước Pháp có câu nói: ta là một vị sứ nhà trời đem vãi khắp hoa tự-do cho mọi chỗ.
  95. Biển Thái-bình-dương là biển lớn nhất trong thế-giới.
  96. Biển Đại-tây-dương.
  97. Các thứ đồ mỏ.
  98. Các vật-sản sứ nào có những cái gì.
  99. Ông Kha-luân-Bố (Colomb) vượt bể Đại-tây-dương mấy lần mới tìm được châu Mỹ.
  100. Châu Mỹ chia làm hai phần: châu Bắc Mỹ và châu Nam Mỹ.
  101. Nói bóng là đi thuyền đi tầu.
  102. Nói bóng là chết đuối.
  103. Tức là cá ông.
  104. Cá ông không đẻ trứng như các loài cá khác, cũng mang thai con trong bụng như loài người; không thở bằng mang như các loài cá khác, cũng thở bằng phổi như người.
  105. Chỗ cha mẹ ở
  106. Điển cũ: xưa có một người học-trò vào kinh thi, qua bến Ngự-câu, nhặt trên giòng nước được mảnh lá đỏ có đề một bài thơ, người ấy cũng đề một bài thơ trên lá thả xuống nước trôi đi, một người con gái bắt được mảnh lá ấy; sau hai người thành vợ chồng
  107. Điển cũ: xưa có một người cao-sĩ đương làm quan bỏ về, treo mũ ở cửa Thần-vũ để trả nhà vua.
  108. Điển cũ: xưa ông Địch-Nhân-Kiệt đi làm quan xa, trông thấy đám mây trắng bay ở trên núi Thái-hàng, ngùi-ngùi nói: nhà cha mẹ ta ở dưới đó.
  109. Những đồ vật dự bị để đi về.
  110. Đức Khổng-tử, ông Trình đều là nhà học-vấn trứ-danh đời trước, nên chỗ học-hành gọi là sân Khổng, cửa Trình.
  111. Làm nên công-nghiệp danh tiếng vẻ-vang đến cả cha mẹ. Có câu cổ: dương danh hiển thân. 揚 名 顯 親
  112. Nói bóng là cứu giúp trong khi gấp khúc.
  113. Nói bóng là làm ơn cứu khổ giúp cùng cho.
  114. Nói bóng là người khôn không mắc lời nói khéo, không vì kẻ khác đem thế lợi dụ mà lừa được mình.
  115. Tỉ với vợ, có câu ca-rao; đàn-bà như hạt mưa rơi.
  116. Nói cha phải tù tội khổ-sở.
  117. Nói thân mình phải lưu-lạc, thiệt-thòi mất cả một đời.
  118. Nói bóng là chồng đi xa vắng,
  119. Bạn cùng học một trường.
  120. Tỉ với bạn thân.
  121. Quản-Trọng với Pháo-Thúc hai người chơi thân với nhau. Khi Quản cùng khốn, Pháo giúp tiền của cho rất nhiều.
  122. Tức là chồng.
  123. Ông Tử-Lộ nói muốn được có xe ngựa cùng với bạn hữu đi chung cho đến nát không hối-hận gì.
  124. Ông Trần-Phồn làm bạn với Từ-Trĩ, nhà có mỗi một cái giường, chỉ khi nào Từ đến chơi là hạ xuống cùng ngồi với Từ.
  125. Nói bóng là vẫn dình chực cướp người đẹp ép làm vợ mình.
  126. Lúc chết.
  127. Nói bóng là việc đã lỡ rồi.
  128. Kẻ vô tội mắc oan.
  129. Điển cũ: Tào-Tháo xưa định đánh Ngô cướp lấy hai con gái họ Kiều, làm sẵn cung Đồng-tước để bắt được hai con gái họ Kiều thì đem về để đấy. Có câu cổ thi: Đồng-tước xuân thâm tỏa nhị kiều 銅雀春深鎖二喬 nghĩa là cung Đồng-tước xuân thâm khóa kín hai Kiều ở đấy.
  130. Làm ách người ta.
  131. Là hai nhà nghĩa-hiệp về đời Hán bên Tầu, hay cứu giúp người hoạn-nạn, trừng-trị kẻ hào-cường.
  132. Người đi chơi xa, lưu ngụ các xứ khác.
  133. Mưu tính việc làm ăn.
  134. Mở các mỏ.
  135. Các nhà máy.
  136. Một đôi vợ chồng tài đức đăng đối với nhau.