Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/40

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
20
THƠ

NGUYỄN-KHUYẾN 阮 勸

Trước cụ tên là Nguyễn-văn-Thắng sau mới đổi là Khuyến, thường gọi là cụ Tam-Nguyên Yên-đổ, vì cụ người làng Yên-đổ huyện Nam-sang, tỉnh Hà-nam, năm 1871 đời vua Tự Đức thứ 24, thi đậu Tam-nguyên, làm quan đến chức Sơn-Hưng-Tuyên Tổng-đốc, sau vì đau mắt nặng, cáo quan về nhà dạy học.

Cụ là một bực hay chữ đã có tiếng, mà văn nôm cũng tài lắm. Trong mấy năm về trí sĩ, ngâm vịnh thơ ca rất nhiều. Có một tập thơ đề là « Quế-Sơn thi-tập » (Quế-Sơn là tên hiệu của cụ). Văn nôm của cụ viết cũng nhiều lối (thơ, ca, hát nói, câu đối v. v.) và đủ giọng (tả cảnh, tả tình, châm biếm, bỡn cợt v. v.)

19. — THU ĐIẾU

Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền[1] câu bé tẻo-teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ-lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh-co khách vắng teo.
Tựa gối ôm (buông) cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

CÂU HỎII. Ý tưởng — 1. Bài thơ này về thể gì?

2. Trong bài này những câu nào tả cảnh mùa thu và những câu nào nói việc câu cá? Hai câu kết có lý-thú gì?

II. Lời văn. — 1. Những tiếng bé tẻo-teo, vắng teo đối với trí tưởng-tượng của người ta và thanh-âm câu thơ có hiệu-lực gì?

20. — THU ẨM

Năm gian nhà cỏ thấp le-te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập-lòe.
Lưng giậu phất-phơ mầu khói nhạt[2],
Làn ao lóng-lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy,
Độ dăm ba chén đã say nhè.


  1. Ghe
  2. Lạt