Vân đồn

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Vân đồn[1] - 雲屯
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

路入雲屯山復山
天恢地設付奇觀
一盤藍碧澄明鏡
萬斛鴉青鬌翠鬟
宇宙頓清塵海岳
風波不動鐵心肝
望中岸草萋萋綠
道是藩人駐舶灣

Lộ nhập Vân đồn san phục san;
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính;
Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc;
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị Phiên nhân trú bạc loan[2].

Đường vào Vân-đồn núi rồi lại núi;
Trời lồng lộng đất đặt thành chỗ kỳ quan.
Một tấm sắc lam sắc biếc, kính sáng trong vắt ;
Muôn hộc sắc đen sắc xanh, tóc thúy từng chòm.
Vũ trụ bỗng gạn trong biển núi bụi bậm;
Gió sóng không lay chuyển ruột gan sắt gang.
Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rờn lục.
Nghe nói đó là vụng người Phiên đỗ tàu.

   




Chú thích

  1. Vân Đồn: đảo Vân Đồn ở phía đông vịnh Bái Tử Long, cũng gọi là đảo Lợn Lòi, đời Trần là huyện Vân Đồn, sau là tổng Vân Hải thuộc huyện Nghiêu Phong tỉnh Quảng Yên
  2. Vân Đồn là hải cảng ngoại thương của nước ta ở thời Lý Trần, tàu ngoại quốc đến nước ta chỉ được đậu ở đấy, không được vào nội địa. Nước ta xưa gọi người ngoại quốc là người Phiên, theo tiếng người Trung Quốc dùng để gọi người các nước thuộc phương Tây và phương Bắc