Vậy mới phải/III

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Thanh-Tuyền lần bước về dinh,
Hổ thân yếu sức, tức mình tuổi cao.
Cho đòi công-tử thẳng vào,
Nỗi thù nỗi oán đuôi đầu bày ngay.
Rằng: "Công sanh dưỡng bấy nay,
Hội nầy con khá thế tay tẩy hờn.
Người đời danh giá là hơn,
Xấu cha thì cũng xấu dần đến con.
Thảo thân con giữ cho tròn,
Sanh thành nghĩa nặng tày non chập chồng."
Thanh-Tòng trở gót thơ-song,
Nỗi thù đau đớn, nỗi lòng dở dang
Ví dầu chữ hiếu vẹn toàn,
Chữ tình trắc trở biết toan thế nào ?
Trách trời khuấy khỏa anh-hào,
Chưa gần khiến cách, chưa vào khiến ra.
Chữ tình sánh với thù cha,
Bên tình đã nặng bên cha lại càng.
Chiều xuân dựa án bàng hoàng
Hết thương rồi giận, hết than rồi rầu.
Nghĩ ra chữ hiếu đứng đầu,
Không cha thì có biết đâu là tình.
Động lòng cảm đức sanh thành,
Mang cung đai kiếm một mình ra đi.
Nỗi lòng phú nấy hóa-nhi[1],
Tới đâu hay đó trước suy đặng nào.
Gặp quan Đô-thống lai trào,
Thanh-Tòng cản lộ gởi trao đôi lời.
Trách người chi tệ bấy người,
Ỷ mình mạnh sức hiếp người yếu tay.
Tuy là gánh nặng hai vai,
Cù lao báo trước, duyên hài liệu sau.
Thù cha dễ lấp ngơ nào,
Xin người đấu sức thấp cao cho tường.
Ví dầu lâm lấy mũi thương,
Sanh thành trọn đạo, sâm thương[2] cam lòng.
Nhị-Lôi nhắm dạng Thanh-Tòng,
Thốt rằng: "Như vậy thiệt dòng hùng anh.
Đông đào tây liễu duyên lành,
Một nguyền chẳng thẹn, ba sanh[3] trọn bề.
Khuyên chàng Đông-bích[4] trở về,
Thừa-long[5]phải khoản, nào chê bai gì.
Đèo bồng cung kiếm mà chi,
Tài đây sức đấy dám bì hay sao?"
Sanh rằng : "Tài đợi tuổi nào,
Đó đây ra sức thấp cao mới tường."
Nhị-Lôi nghe nói bẩ gan,
Dằn lòng chẳng đặng đề[6] chàng thích[7] ngay.
Đôi bên đề kiếm giao tay,
Hùm ngồi góc núi rồng bay giữa trời.
Lược thao bày bố đua tài,
Bên lo thủ thế bên thời phá vây.
Vừng hồng vừa gát hiên tây,
Sa cơ Đô-thống bị tay Thanh-Tòng.
Tiếc thay danh giá trào trung,
Rủi ro một phút thoát vòng trần-gian.

   




Chú thích

  1. Một cách gọi trời
  2. Sâm, thương: tên hai vì sao đối nhau trong khóm nhị thập bát tú, nghĩa bóng: sự ngăn cách
  3. Ba kiếp người = lâu dài như tình nghĩa vợ chồng
  4. Đông Bích: vách phía đông, chữ lấy ở trong thơ của Trương Thuyết "Đông bích đồ thư phủ" nghĩa là kho tranh và sách ở vách phương đông (xem Khóc bạn, Nguyễn Khuyến), ở đây: khuyên chàng rể tương lai về nhà đọc sách
  5. Cưỡi rồng: cưới gả
  6. Nắm
  7. Đâm