Đời cách mạng Phan Bội Châu/Long Tế Quang bắt tôi hạ ngục

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

LONG-TẾ-QUANG BẮT TÔI HẠ NGỤC

MÙNG năm tháng năm Nhâm-tý, anh em trong đảng sửa sang tổ-chức lại, thành ra hội « Việt-nam Quang-phục. 會 復 光 南 越 »

Các đồng-chí cử tôi giữ quyền tổng-lý; Hoàng-quân Trọng-Mậu thì làm bí-thư.

Chúng tôi thảo ra thể lệ cách-thức đạo quân Việt-nam Quang-Phục, lại in ra phiếu quân-dụng riêng cho Việt-nam Quang-phục-quân dùng với nhau. Một mặt khác, chúng tôi muợn in vô số sách vở văn bài cổ-động, như là truyện Hà-thành Liệt-sĩ và bài văn Khuyên-bảo lính-tập, rồi sai người chuyển-vận về nước, rải phát tứ tung.

Tháng hai năm Quý-sửu, chúng tôi ủy ông Nguyễn-Hãi-Thần làm chi bộ bộ-trưởng hội Việt-nam Quang-phục ở Quế-biên, (giáp giới tỉnh Quế, tức tỉnh Quảng-tây): ông Trần-văn-Kiện làm chi-bộ bộ-trưởng ở Xiêm-biên, còn ngả Điền-biên (Điền là tên tắt của tỉnh Vân-Nam) thì Đổ quân Chơn-Thiết tự nguyện phụ-trách.

Chúng tôi bàn định lúc nào cử-sự thì cả ba mặt cùng tiến, cho nên sắp đặt từ trước sẳn sàng chỉ còn đợi ngày giờ đến thì làm việc.

Tuy vậy, lúc ấy đảng ta vẫn có một vấn đề khó nỗi giải quyết, là vấn-đề kinh-tế.

Khó quá, kinh-tế chưa được sung-túc, mà đến khí giới với quân-lương cũng đều lo ngại thiếu thốn nửa mới khổ. Nhưng nếu đừng có việc tai biến gì xẩy ra một cách bất ngờ, để chúng tôi còn có ngày giờ thì vấn đề ấy dầu khó mặc lòng, họa may có thể trù tính xong được. Song chẳng may thuyền xuôi gió ngược, tai biến xẩy ra không ngờ, làm cho toàn cuộc mưu tính của chúng tôi hư hỏng tiêu tan như bọt nước bóng mây. Hán Vỏ-hầu (Gia-Cát Khổng-Minh than rằng việc đời khó được như ý, thật đúng lắm thay!

Mùa hạ năm Quý-sửu, ở tỉnh thành Quảng-đông có việc quân lính nổi dậy gây biến, cốt đánh đổ Đô-đốc Trần-cảnh-Hoa, làm cho Trần phải chạy. Long-tế-Quang kéo binh tới, tự lãnh chức Đô-đốc Quảng-đông.

Thuở nay, họ Long với đảng Việt-nam cách-mạng vẫn không quen biết nhau và không quan hệ liên lạc với nhau bao giờ. Đã vậy mà Long lại là người thù ghét vây cánh Hồ-hán-Dân và Trần-cảnh-Hoa. chỉ muốn có dịp bài trừ cho tiệt. Thành ra đảng ta bị vạ lây; tôi phải ôm cái cảm khái thỏ chết chồn đau, vì Hồ-Trần thất bại, đảng ta không chỗ nương dựa ở Quảng-đông nửa.

Lúc đó tôi muốn bỏ đi nơi khác cho mau, nhưng vì có công việc của đảng còn ràng buộc, bỗng chốc thu xếp không kịp, tôi đành phải nấn ná ở lại.

Nhưng cũng lo phòng thân, tôi lật đật viết thư lên Nguyễn-quân Đĩnh-nam (tức Nguyễn-thượng-Hiền), cậy ông tìm cách vận động xin dùm tôi một hộ-chiếu, để nữa tôi có đi đâu mới đi được.

Nguyễn-quân vốn là một nhiệt tâm với nước. Sơ-tuần tháng 7, ông tiếp được thư tôi, lập tức lấy được giấy hộ-chiếu của bộ Ngoại-giao Bắc-Kinh gửi xuống cho tôi. Có tờ hộ-chiếu nắm trong tay rồi, tôi bớt lo sợ.

Vả lại các bạn đồng-chí cùng ở Quảng Đông với tôi lúc bấy giờ khá nhiều, nếu như đồng thời giải tán, muốn đi đâu cũng phải cần có phí khoản mà hiện tại tiền bạc không có, thành ra chúng tôi đành chịu nấn ná ở lại đây với nhau, không tính đi đâu được.

Cách không bao lâu, có tin báo rằng quan Toàn quyền Đông-Pháp sắp tới Quảng-đông. Kế một tuần sau, thì các cơ-quan hành-sự của đảng ta đều bị khám xét và được lệnh bị giải tán, Tôi với yếu nhân của đảng là Mai-quân cùng bị bắt hạ ngục. Nguyên trước Hoàng-quân Trọng-Mậu có việc đi Vân-nam và Phan-quân Bá-Ngọc hồi xuống tàu đi Nhật-bản, đều căn dặn tôi nêu liệu cơ mà từ giã Quảng-đông kẻo nguy. Song tôi suy nghĩ các bạn đồng-chí đang ở Quảng-đông với mình vô số, mình không đành lòng nào lo riêng một mình. Vì đó mà tôi cứ do dự chần chờ, mới vương lấy tai ách bây giờ. Đó là cái hiệu-quả tôi không khôn và tôi vô-dũng ra vậy.

Ban đầu mới bị bắt, tôi vẫn tự nghĩ rằng mình không đến nỗi nào phải chết. Đến lúc thấy cách thức người ta áp-giải mình đi dọc đường, nào xiềng tay, nào trói chặt, dẫn về tới ngục-thất, họ lại giam trong ngục thất chung một chỗ với bọn tù xử-tử, bấy giờ tôi mới biết rằng Đô-đốc Long-tế-Quang không đãi tôi là hạng tù chính-trị, vậy thì ngày giờ tôi chết gần đến nơi mất rồi!

Từ khi xuất-dương tới giờ, tôi được nếm mùi ở tù, lần này là lần thứ nhất. Nhưng Mai-quân hơn tôi: lần này ông ta vào ngục là lần thứ ba rồi.

Vào ngục bữa đầu hết, tôi với Mai-quân ở chung một săn-lim. Đêm hôm ấy tôi đọc miệng một bài thơ để an-ủi Mai-quân như vầy:

飃蓬我輩各他鄉
辛苦偏君分外嘗
性命幾回頻死地
鬚眉三度入囹堂
驚人事業天陶鑄
不世風雲帝主張
假使前途盡夷坦
英雄豪傑也庸常

« Phiêu bồng ngã tối các tha hương;
« Tân khổ thiên quân phận ngoại thường.
« Tính mạng kỷ hồi tần tử địa.
« Tu-mi tâm độ nhập linh đường.
« Kinh nhơn sự nghiệp thiên đào chú;
« Bất thế phong vân đế chủ trương.:[1].
« Giả-sử tiền đồ tận di thản.
« Anh hùng hào kiệt giã dung thường

Đại ý là:

Bơ vơ đất khách bác cùng tôi;
Riêng bác cay chua nếm đủ mùi.

Tính mạng bao phen gần chết hụt.
Mày râu ba lượt bị giam rồi!
Trời toan đại-dụng nên rèn chí.
Chúa giúp thành-công tất có hồi.
Nếu phải đường đời bằng phẳng hết.
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.

Còn tôi thì tự an ủi mình bằng một bài thơ nôm như sau này:

« Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu,
« Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
« Đã khách không nhà trong bốn biển,
« Lại người có tội giữa năm châu.

« Bủa tay ôm chặt bồ kinh-tế,
« Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
« Thân nọ vẫn còn, còn sự nghiệp,
« Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Làm xong hai bài thơ, tôi ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả bốn vách, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục.

Qua ngày thứ nhì, người ta nhốt riêng tôi và Mai-quân mỗi người ở cách biệt nhau một nơi. Thế là từ hôm nay, tôi là thằng tù bơ vơ trơ trọi ở chốn tha-hương khách-địa.

Những nỗi khổ nhục ở trong khám, cố nhiên mình chẳng nên xót xa than thở làm gì. Duy có một điều đau đớn là mình phải cách trở anh em tuyệt hẳn tin-tức, mà ở trong ngục chỉ có một mình nói tiếng Việt-nam cho mình nghe thôi, nghĩ luống tự buồn rầu cho thân phận, rồi lại chạnh niềm nhớ tới công việc thất bại, khiến tôi phải đau lòng mà khóc, nước mắt tầm tã như mưa. Thật là từ lúc cha mẹ đẻ tôi ra đến nay chưa hề lúc nào biết mùi đau đớn như bây giờ.

Mà từ lúc cha mẹ đẻ ra, tôi chưa hề nếm mùi đau đớn như vầy, đầu giây mối nhợ là vì cái chí tôi hoài bão từ 30 năm trước.

Cái chí tôi hoài bão ra thế nào?

Thì chí muốn đổ máu ra mua sự tự-do, đánh đổi cái kiếp tôi tớ lấy quyền tự-chủ đó thôi.

Ôi! cái chí tôi hoài-bão như thế, cứ lấy thiên chức quốc-dân ta mà nói, có ai dám bảo rằng: không nên. Song ôm cái chí đó mà có làm thành việc lớn chăng, thì phải nhờ có bắp thịt cứng ra thế nào, học thức giỏi ra thế nào, thủ đoạn có tài thao túng ra thế nào, thời-thế có khéo xoay chuyển thế nào mới được,. Đằng này tôi tự hỏi lấy tôi, bất quá như anh mù cỡi con ngựa đui vậy thôi. Bây giờ kết quã thất bại như thế này, chính vì tôi dở mà ra, còn than trách gì nữa!

Tuy vậy, tôi nghĩ trong thế giới chẳng lẽ nào có một con nước hễ đã xuống rồi thì không bao giờ nó lại lên, chẳng lẽ nào có một cuộc đời hễ đã thành rồi thì không có lúc thay đổi; bởi vậy cái cuộc thất bại của tôi tạo ra ngày nay, biết đâu không phãi là cái phước cho quốc dân ta sau này?

Than ôi! Dòng dõi Hùng-vương chưa chết hết, chuyện cũ Lê-hoàng còn mới hoài, phàm là quốc dân ta, ai hoài bão chí muốn như ta, tất có ngàn ta, muôn ta, ức triệu ta, nên lấy việc thất bại trước của một ta mà răn mình, để cho được trở nên những người năng-y, không đợi tới chín lần đứt tay mới hay thuốc!

Tôi lại nghĩ tôi là một người trong tay không có lấy một miếng sắt, trên mặt đất cũng không có lấy một chỗ nào đứng chân, chẳng qua mình chỉ là một thằng tay không chân trắng, sức yếu tài hèn, lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài vuốt nhọn. Ai biết lòng mình thì than tiếc dùm mình mà nói:

— Gan to!

Ai muốn bắt lỗi mình thì cả thể bảo mình;

— Ngu quá!

Tóm lại, trong đời người thật không có ai ngu lạ như tôi. Nếu có phải tánh mạng của tôi đến ngày hôm nay là ngày cùng rồi, khi tôi chết, người ta cứ đặt tên hèm cho tôi là Kỳ-ngu thì đúng lắm, không đổi được chữ nào khác hơn. Nhưng nếu muôn một mà tôi không chết, thì rồi sau thấy beo cọp há lại không thể đánh được ư? Xin quốc-dân ta nên xem gương tôi mà tự răn lấy mình.

Lịch ta ngày 25 tháng chạp năm Quý-
Sửu, Sào-nam-tử viết tập
« Ngục
trung thư
 » này ở nhà ngục Quảng-
châu, sau khi vào ngục 3 ngày.

  1. Vì Mai-quân là một vị cố đạo Thiên-Chúa nên cụ Phan mới có câu này.