Đánh tài bàn
Tài bàn, tài bàn ! Ai sinh ra chàng? trăm hai mươi quân, phu ba kéo hàng. Cũng vạn, cũng sách, cũng chi, lão, thang. Nào ăn nào đánh, muốn dọc muốn ngang. Có lạ gì đâu, tổ tôm một phường, có khác gì đâu, khác chín lưng khàn. Từ khi mới sang, vác mặt nghinh ngang; đi đâu theo đó, sum họp thành làng.
Nguyên ngươi ở đâu? Ngươi ở bên Tàu? Tên ngươi ai đặt? Họ ngươi ai đầu? Trong phường dệt gấm, chú chiệc bán dầu.
Vài mươi năm trước, qua nước Nam-Việt; xưa chửa biết ai, nay ai cũng biết. Càng quen thuộc lắm, chơi bời càng riết; kể mặt làng chơi, tính sao cho xiết.
Thím khách, cô tây, bác thông cậu ký; thày giáo thày nho, cụ tổng cụ lý, ông cả, bà lớn, bố cu, mẹ đĩ; đến cả sãi chùa, cùng đàn trẻ bé; rằng buồn ông chơi , thấy vui cháu ké.
Nơi thời:
Lầu hồng gió cuốn, gác tía giăng soi; đèn pha-lê thắp, sập vân-mẫu ngồi; kẻ hầu bốc nọc, đứa chực chia bài; trăm nghìn không kể, chơi lấy kẻo hoài.
Nơi thời:
Mấy mặt làng nho, vài người bạn cũ; điếu thuốc miếng giầu, câu thơ vần phú; ngày hãy còn dài, ta chơi cho bõ.
Lại kìa:
Mấy cậu dẻo giai, mấy ả mày ngài, đồng hồ túi áo, kim cương hoa tai. Ma-đam me-sừ, móc lưng cỗ bài. Chim chuột là cốt, được thua cũng lời.
Lại kia:
Nhà tranh rếch rác, giường tre lệch lạc, thằng quần lồng bàn, đứa khăn mảnh bát, xỏ lá một phường, bợm keo một loạt, thuốc khét râu ngô, nước bung chè hạt. Người mươi đồng xu, bài một cỗ nát. Ngọn đèn lờ mờ, năm canh xào xạc.
Thôi thôi thôi thôi, chú tài thím tài, ông bàn bà bàn, xin xuống tầu trước, cả nước tôi van!