Bước tới nội dung

Điệp tử thư trung

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

{{đầu đề



Điệp tử thư trung


Bướm chết trong sách 蝶死書中

芸窗曾幾染書香,

謝卻風流未是狂。

薄命有緣留簡籍,

殘魂無淚哭文章。

蠹魚易醒繁華夢,

螢火難灰錦繡腸。

聞道也應甘一死,

淫書猶勝為花忙

| tựa đề     = Điệp tử thư trung
| tác giả    = Nguyễn Du
| dịch giả   = 
| năm        = 
| phần       = 
| trước      = 
| sau        = 
| ghi chú    = Chưa tìm được bản chữ Hán

}}

Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

Vân song[1] tằng kỷ nhiễm thư hương,
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng.
Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch[2],
Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.
Đố ngư[3] dị tỉnh phồn hoa mộng[4],
Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường.
Văn đạo[5] dã ưng cam nhất tử,
Dâm thư do thắng vị hoa mang.

Bao nhiêu lâu nay nhiễm hương thơm của sách trong thư phòng,
Từ bỏ cảnh phong lưu không thể cho là dại.
Mệnh tuy bạc, nhưng cũng phải có duyên mới lưu lại với sách.
Hồn tàn không có nước mắt mà khóc văn chương.
Con mọt sách dễ làm tỉnh mộng phồn hoa.
Lửa đom đóm khó đốt cháy tấm lòng gấm vóc.
Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam,
Ham mê sách còn hơn đắm đuối vì hoa.

   




Chú thích

  1. Vân song: Cửa sổ trồng cỏ vân hương, tức thư phòng
  2. Giản là thẻ tre. Ngày xưa chưa có giấy, dùng thẻ tre để ghi chép. Tịch là sổ sách
  3. Đố ngư: Dịch tạm là mọt sách. Nhưng không phải giống mọt như mọt cây gỗ, vì không có vỏ cứng. Đây là một loại gián nhỏ, không cánh, có ba lông đuôi như ba sợi râu
  4. Phồn hoa mộng: Mộng giàu sang
  5. Văn đạo: Nghe được Đạo. Do câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ : "Triêu văn đạo tịch tử khả hĩ!" Nghĩa là: "Sáng nghe đuợc đạo lý, chiều tối chết cũng hả lòng"