Bước tới nội dung

Đi thi tự vịnh

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Đi thi tự vịnh
của Nguyễn Công Trứ

Đi không há lẽ trở về không,
Cái nợ cầm thư[1] phải trả xong.
Rắp mượn điền viên[2] vui tuế nguyệt[3],
Trót đem thân thế hẹn tang bồng[4].
Đã mang tiếng trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai[5], ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.

   




Chú thích

  1. Cầm thư 琴書: cầm là đàn cầm, thư là sách, hai đồ dùng của người học trò. Nghĩa bóng là công học tập.
  2. Điền viên 田園: ruộng vườn; chỉ cái thú của người ở chốn thôn quê.
  3. Tuế nguyệt 歲月: năm tháng.
  4. Tang bồng hồ thỉ (桑蓬弧矢): tang - cây dâu; bồng - cỏ bồng; hồ - cây cung; thỉ - mũi tên. Theo Kinh Lễ, khi nhà vua sinh hoàng tử, quan coi việc lấy cung bằng cây dâu và 6 mũi tên bằng cỏ bồng, bắn ra bốn hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc) rồi bắn lên trời một mũi, bắn xuống đất một mũi, ngụ ý: người con trai lớn lên có chí khí ở bốn phương, tung hoành ngang dọc trong trời đất
  5. Trần ai 塵埃: bụi cát. Nghĩa bóng là lúc còn hàn vi, lúc chưa hiển đạt.