Báo cáo tình hình buôn người năm 2012

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Báo cáo tình hình buôn người năm 2012  (2012) 
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Báo cáo được công bố ngày 19 tháng 6 năm 2012.

VIỆT NAM (Trong danh sách loại 2)

Việt Nam vừa là điểm xuất phát và, ở một chừng mực thấp hơn, vừa là đích đến của nhiều nam giới, phụ nữ và trẻ em bị buôn bán vì mục đích tình dục hoặc bị cưỡng ép lao động. Nhiều nam giới và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài lao động thông qua con đường tự túc hoặc các công ty xuất khẩu lao động - mà phần lớn trong số đó là các đơn vị nhà nước -trong các ngành xây dựng, đánh bắt thuỷ sản, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ và cơ khí chế tạo tại Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Lào, Các tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a, Vương quốc Anh, Cộng hoà Séc, Đảo Síp, Thuỵ Điển, Trinidad và Tobago, Costa Rica, Nga, Libya, Ả-rập Xê-út, Gioóc-đa-ni và một số quốc gia khác ở Trung Đông và Bắc Phi. Một số người này sau đó đã rơi vào tình trạng bị cưỡng ép lao động. Phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục thường bị lừa gạt bởi các cơ hội việc làm giả mạo và bị bán cho các nhà chứa ở biên giới với Campuchia, Trung Quốc và Lào, một số người sau đó bị đưa sang các nước thứ ba như Thái Lan và Ma-lai-xi-a. Một số phụ nữ Việt Nam bị cưỡng ép hành nghề mại dâm ở Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Singapore và châu Âu.

Các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam, hầu hết là các đơn vị thành viên của các công ty nhà nước, cũng như các công ty/cá nhân môi giới lao động không có giấy phép hoạt động, đã bắt người lao động phải đóng những khoản phí vượt quá mức quy định của pháp luật để được đi xuất khẩu lao động. Tình trạng này khiến lao động Việt Nam phải gánh chịu những khoản nợ cao nhất trong số những lao động là người châu Á, và rất dễ rơi vào hoàn cảnh phải làm công trừ nợ hoặc bị cưỡng ép lao động. Một nghiên cứu về xu hướng di cư được thực hiện năm 2010 đối với 1.265 người ở phía Bắc Việt Nam đi xuất khẩu lao động cho thấy hầu hết những người này phải nộp mức phí tuyển dụng rất cao, khiến họ rơi vào tình trạng nợ nần trong nhiều năm; phần lớn những người về nước sớm hơn dự kiến – sau 1 đến 2 năm làm việc tại nước ngoài – đều không kiếm đủ tiền để trả những khoản nợ này. Sau khi đến nước tiếp nhận lao động, một số người mới nhận ra rằng họ bị bắt buộc phải làm việc trong những điều kiện dưới chuẩn, được trả lương rất ít hoặc không được trả lương, bất chấp những khoản nợ đang đè nặng trên vai, cũng như không được tiếp cận với kênh trợ giúp pháp lý đáng tin cậy nào. Một số công ty tuyển dụng không cho người lao động xem trước hợp đồng cho đến tận ngày cuối cùng trước ngày dự định khởi hành và sau khi họ đã phải nộp một khoản phí tuyển dụng khá lớn, mà thường là phải vay nợ; một số người lao động cho biết họ phải ký kết hợp đồng được soạn thảo bằng một thứ tiếng mà họ không hiểu. Đã có một số trường hợp được ghi nhận về việc các công ty tuyển dụng không đáp ứng yêu cầu trợ giúp của người lao động khi họ bị bóc lột.

Các nhóm tội phạm có tổ chức ở Việt Nam và Trung Quốc có dính líu đến việc cưỡng ép trẻ em Việt Nam làm việc tại các trang trại trồng cần sa ở Anh. Khi sang đến nơi, các em đã phải gánh chịu những khoản nợ lên tới 32.000 đô-la. Các nguồn tin cũng cho biết nhiều người trong số những nạn nhân Việt Nam này bị một đối tượng trung gian đưa sang Nga qua đường hàng không, sau đó đi bằng xe tải qua Ukraina, Ba Lan, Cộng hoà Séc, Đức, Pháp rồi đến Anh. Trong năm 2011, một số phụ nữ Việt Nam đã bị bắt cóc sang Thái Lan để đẻ thuê cho người nước ngoài. Cũng có nhiều báo cáo cho biết một số nam giới, phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị cưỡng ép lao động cả ở trong nước lẫn nước ngoài. Ở cả hai trường hợp mua bán người vì mục đích tình dục và lao động, các biện pháp như bắt làm trừ nợ, tịch thu giấy tờ tùy thân và giấy thông hành và đe dọa trục xuất thường được sử dụng để dọa dẫm nạn nhân. Một số phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao và ngày càng có nhiều người sang Hàn Quốc theo hình thức môi giới hôn nhân với người nước ngoài, sau đó thường rơi vào hoàn cảnh bị cưỡng ép lao động (kể cả làm phục vụ trong gia đình), bị ép làm mại dâm, hoặc cả hai. Cụ thể, có những báo cáo về việc mua bán phụ nữ và trẻ em gái từ các tỉnh nghèo, từ nông thôn ra các đô thị như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hoặc các khu vực mới phát triển như Bình Dương. Một số cá nhân ban đầu tự nguyện di cư, nhưng sau đó họ có thể bị bán làm lao động hoặc để bóc lột tình dục vì mục đích thương mại.

Trẻ em từ các vùng nông thôn dễ bị bóc lột tình dục vì mục đích thương mại. Các em cũng bị bắt phải đi bán hàng rong, ăn xin, hoặc bị bắt phải làm việc tại các quán ăn, nhà hàng ở các thành phố lớn, mặc dù một số nguồn tin cho biết hiện tượng này không còn nghiêm trọng như những năm trước. Một số trẻ em Việt Nam là nạn nhân bị cưỡng ép lao động hoặc phải làm công trừ nợ tại các nhà xưởng của gia đình chủ hoặc tại các mỏ khai thác vàng của tư nhân ở vùng nông thôn. Các tổ chức phi chính phủ cho biết các đối tượng buôn người đang tăng cường sử dụng Internet để dụ dỗ các nạn nhân, dẫn đến số lượng những người Việt Nam thuộc tầng lớp trung lưu ở thành thị trở thành nạn nhân của những vụ mua bán người cũng ngày càng tăng. Có báo cáo cho thấy những ai không hoàn thành khối lượng công việc được giao sẽ bị đánh đập hoặc phải chịu các hình thức lạm dụng khác. Mặc dù không phải là một hiện tượng phổ biến, nhưng Việt Nam vẫn bị coi là điểm đến của du lịch tình dục trẻ em, mà những kẻ mua dâm chủ yếu là những người đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Úc, châu Âu và Hoa Kỳ.

Chính phủ Việt Nam chưa tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu nhưng cũng đã nỗ lực đáng kể nhằm xóa bỏ nạn buôn người. Trong năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một nghị định quy định trách nhiệm soạn thảo và ban hành các thông tư và nghị định về bảo vệ, ngăn chặn và truy tố nhằm triển khai toàn diện luật chống nạn buôn người mới và bao quát hơn của Việt Nam. Luật này được thông qua vào tháng 3/2011 và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1/2012. Trong năm 2011, Chính phủ đã áp dụng các bộ luật hiện hành để khởi tố hình sự một số vụ án về mua bán người vì mục đích lao động; trong nhiều trường hợp, công tố viên căn cứ vào Điều 139 về “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” để luận tội. Các trung tâm cải tạo dành cho những người nghiện ma túy và mại dâm do chính quyền Việt Nam quản lý vẫn tiếp tục bắt ép những người bị cải tạo phải làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng và sản xuất chế tạo – một hình thức mua bán người – bất chấp sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế. Chính phủ Việt Nam đã không hỗ trợ đầy đủ cho những người lao động Việt Nam ở nước ngoài đang phải lao động trừ nợ hoặc phải chịu các hình thức cưỡng ép lao động khác. Trong thời gian báo cáo tường trình, Chính phủ Việt Nam đã dự thảo các quy trình nhận diện nạn nhân mới. Trong năm 2011, Việt Nam đã hoàn thiện và phổ biến Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 5 năm (2011 – 2015) về Phòng chống Mua bán người và công bố sẽ phân bổ một khoản ngân sách tương đương 15 triệu đô-la Mỹ để triển khai kế hoạch trên. Phạm vi kế hoạch bao gồm toàn bộ các dạng thức của mua bán người và các hoạt động chống mua bán người của Chính phủ sẽ được điều phối thông qua Ủy ban Quốc gia về Phòng chống Mua bán người do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo. Mặc dù các cán bộ ngành công an cho biết hoạt động mua bán người trong nước và mua bán nam giới có thể chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các hoạt động mua bán người tại Việt Nam nhưng Chính phủ cũng chưa có các động thái rõ ràng nhằm tăng cường nỗ lực để giải quyết các hình thức mua bán người nói trên trong năm báo cáo này.

Khuyến nghị đối với Việt Nam: Ban hành các hướng dẫn cần thiết để thực thi đầy đủ Luật Phòng chống Mua bán người mới, bao gồm việc xử lý hình sự đối với tất cả các hình thức mua bán người; tập huấn cho các cán bộ ở tuyến đầu và các cán bộ tòa án về các điều khoản của Luật Phòng chống Mua bán người, tập trung vào việc nhận diện tình trạng bị bóc lột của nạn nhân và coi đây là nhân tố cơ bản để xác định tội danh mua bán người; khởi tố hình sự những đối tượng dính líu đến hoạt động cưỡng ép lao động, tuyển dụng người nhằm mục đích cưỡng ép lao động, hoặc lừa đảo trong tuyển dụng lao động và xử lý nghiêm khắc những đối tượng vi phạm; ngừng ngay lập tức hoạt động cưỡng ép công dân Việt Nam lao động vì mục đích thương mại trong các trung tâm cai nghiện của Chính phủ; ban hành các chính sách để chủ động nhận diện nạn nhân trong các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như các lao động Việt Nam di cư bị cưỡng ép lao động, và đảm bảo rằng họ được tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân; xây dựng quy trình xác định nạn nhân chính thức, sử dụng các dấu hiệu bị cưỡng ép lao động đã được quốc tế công nhận như việc các chủ lao động hoặc môi giới lao động tịch thu giấy thông hành của người lao động, đồng thời tập huấn cho các cán bộ có liên quan về việc áp dụng các quy trình này, bao gồm các dấu hiệu bị cưỡng ép lao động đã được quốc tế công nhận như việc các chủ lao động hoặc môi giới lao động tịch thu giấy thông hành của người lao động; tiếp tục bảo vệ người lao động Việt Nam tại nước ngoài bằng cách đưa các biện pháp bảo vệ người lao động Việt Nam vào các biên bản ghi nhớ hoặc các thỏa thuận với các nước tiếp nhận lao động nhiều hơn nữa; thực thi các biện pháp bảo vệ nạn nhân của nạn buôn bán lao động để đảm bảo rằng người lao động không bị đe dọa hoặc trừng phạt khi phản đối lại điều kiện làm việc hoặc rời bỏ nơi làm việc; tăng cường hợp tác liên ngành trong các nỗ lực chống mua bán người; đẩy mạnh việc thu thập và chia sẻ số liệu về các vụ truy tố mua bán người, đặc biệt là các vụ liên quan đến buôn bán lao động ở cấp độ quốc gia nhằm giám sát và đánh giá các nỗ lực triển khai kế hoạch hành động trên toàn quốc; triển khai và hỗ trợ một chiến dịch cụ thể nhằm nâng cao nhận thức về phòng chống mua bán người, trực tiếp hướng đến các đối tượng mua dâm.

Truy tố

Chính phủ Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực thi pháp luật chống lại nạn buôn bán người. Tháng 3/2011, Quốc hội đã thông qua một luật toàn diện về phòng chống mua bán người, trong đó mở rộng định nghĩa về mua bán người bao gồm những hình thức mua bán người chưa thuộc diện bị điều chỉnh tại điều 190 và 120 Bộ luật Hình sự, bổ sung các điều khoản về chăm sóc nạn nhân và biện pháp phòng ngừa. Luật này có hiệu lực từ tháng 1/2012, tuy nhiên các chế tài hình sự đối với các hành vi vi phạm được bổ sung thêm vẫn chưa được ban hành. Tòa án Nhân dân tối cao cần ban hành hướng dẫn chi tiết nhằm đưa ra các chế tài hình sự cho các tội danh mới để đảm bảo tất cả các đối tượng vi phạm đều bị xử lý hình sự theo Luật Phòng chống Mua bán người. Mặc dù Luật đã có hiệu lực từ tháng 1/2012 nhưng việc mở rộng định nghĩa về hành vi mua bán người quy định trong Luật chưa được áp dụng trong giai đoạn báo cáo này tường trình do Chính phủ Việt Nam vẫn chưa ban hành các hướng dẫn cần thiết.

Chính phủ Việt Nam cho biết đa số đối tượng mua bán người đã bị truy tố theo điều 119 và 120 của Bộ luật Hình sự. Các điều khoản này có thể được áp dụng để truy tố một số hình thức buôn bán người, bao gồm buôn bán lao động. Các điều khoản này quy định hình phạt từ 2 đến 7 năm tù, được cho là khá nghiêm khắc và phù hợp với các hình phạt quy định đối với các tội danh nghiêm trọng khác, chẳng hạn như hiếp dâm. Cán bộ tòa án đã diễn giải các điều khoản trong Bộ luật Hình sự về mua bán người theo hướng chỉ áp dụng cho các trường hợp có sự trao đổi thanh toán với một bên thứ ba, điều này dẫn đến việc một số trường hợp mua bán người được truy tố hình sự với tội danh vận chuyển người trái phép. Các trường hợp khác chỉ bị xử phạt hành chính theo Luật lao động, theo đó không quy định chế tài hình sự đối với hành vi mua bán lao động. Khác với bộ luật mới, Bộ luật Hình sự không hình sự hóa tội danh có âm mưu mua bán người.

Tháng 9/2011, các nhà chức trách đã giải cứu 23 trẻ em bị bắt phải làm việc tại một xưởng may tư nhân nhỏ; do hành vi tuyển dụng và bóc lột trẻ em được thực hiện bởi cùng một đối tượng nên chính quyền cho biết không thể truy tố trường hợp này theo Điều 190 hoặc 120 Bộ luật Hình sự và quyết định xử lý trường hợp buôn người này với tội danh vi phạm Luật Lao động, bị xử phạt hành chính và cảnh cáo. Tháng 12/2011, tòa án đã kết án hai cá nhân từ 30 đến 36 tháng tù cho hưởng án treo do vi phạm Bộ luật Hình sự về tội vận chuyển 33 nạn nhân sang Trung Quốc và có ý định bóc lột họ. Các nhà chức trách cho biết không thể truy tố những trường hợp này theo điều 119 và 120 do các đối tượng mua bán người chưa được trả tiền sau khi đưa các nạn nhân sang Trung Quốc. Điều này đã cho thấy rõ sự hạn chế khi chỉ dựa vào các điều khoản quy định trong Bộ luật Hình sự.

Các trung tâm thu thập dữ liệu ở cấp trung ương của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp số liệu về việc thực thi pháp luật, chẳng hạn như không phân loại được các vụ truy tố và kết án tội danh mua bán người theo các loại hình mua bán. Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao cho biết trong khoảng thời gian từ ngày 1/12/2010 đến ngày 30/11/2011, chính quyền các cấp đã truy tố 153 trường hợp mua bán người và các tội danh liên quan, số lượng này cũng tương tự như số trường hợp được báo cáo trong năm trước đó. Tuy không có số lượng chính xác nhưng Ủy ban Ban chỉ đạo Chương trình hành động phòng, chống mua bán người (Ban chỉ đạo 130/CP), cơ quan điều phối hoạt động phòng chống mua bán người của Chính phủ ước tính trong năm chính quyền đã kết án hơn 350 đối tượng theo điều khoản 119 và 120 của Bộ luật Hình sự, so với 274 trường hợp bị kết án trong năm trước đó. Chính phủ cho biết đã kết tội 7 đối tượng và kết án tù từ 4 đến 18 năm tù giam theo các điều khoản về mua bán lao động trong năm báo cáo; tuy nhiên, cũng như những năm trước, chính phủ không cung cấp chi tiết bản chất của những trường hợp này để làm căn cứ khởi tố nghi can với tội danh mua bán người. Chính phủ chủ yếu vẫn tiếp tục tiến hành truy tố các trường hợp mua bán người vì mục đích tình dục có yếu tố quốc tế. Nhìn chung thì các nỗ lực thực thi pháp luật ở Việt Nam vẫn chưa đầy đủ để giải quyết tất cả các hình thức mua bán người tại Việt Nam.

Những tranh chấp về hợp đồng giữa lao động Việt Nam và các công ty tuyển dụng lao động có trụ sở ở Việt Nam hoặc các công ty ở nước ngoài hầu như được giao hoàn toàn cho công ty tuyển dụng lao động giải quyết, kể cả các hành vi lừa đảo trong tuyển dụng lao động và các trường hợp khác có dấu hiệu của cưỡng ép lao động. Mặc dù người lao động có quyền hợp pháp để đưa các vụ việc ra tòa, nhưng trên thực tế ít người có đủ nguồn lực để theo kiện. Cũng không có số liệu nào cho thấy số nạn nhân Việt Nam bị buôn bán vì mục đích lao động được bồi thường trước tòa. Do vậy, người lao động trên thực tế đã không thực hiện được quyền đòi bồi thường theo pháp luật một cách thỏa đáng trong những trường hợp này. Chính phủ tiếp tục hợp tác với các tổ chức quốc tế đào tạo các cán bộ hành pháp, cán bộ biên phòng và những người làm công tác xã hội trong lĩnh vực chống buôn người.

Nhiều tổ chức phi chính phủ cho biết tình trạng tham nhũng liên quan đến mua bán người tiếp tục xảy ra ở các địa phương, nơi các cán bộ tại các cửa khẩu biên giới nhận hối lộ, và đôi khi, các cán bộ quyết định không can thiệp để bảo vệ nạn nhân trong những trường hợp mà kẻ mua bán người và nạn nhân có quan hệ họ hàng. Từ tháng 10/2010, Chính phủ cho biết đã kết án hai cán bộ có liên quan đến hành vị mua bán người theo điều 120 của Bộ luật Hình sự; tuy nhiên, do cấu trúc cơ sở dữ liệu của Tòa án tối cao, không thể xác định được thời điểm kết án có nằm trong thời gian báo cáo tường trình hay không và cũng không thể thu thập được chi tiết về việc kết án. Chính quyền tiếp tục cuộc điều tra đối với một cán bộ địa phương được bắt đầu từ giai đoạn báo cáo trước. Người này bị nghi ngờ đã nhận hối lộ để đăng ký kết hôn bất hợp pháp giữa người nước ngoài và phụ nữ Việt Nam, một số phụ nữ trong số này có thể là nạn nhân của nạn mua bán người.

Nguồn tin của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ khác cho biết việc thiếu các nguồn lực tài chính, cán bộ không được đào tạo bài bản, cơ chế hợp tác liên ngành bất cập, yếu kém trong phối hợp thực hiện các công cụ pháp lý hiện có trên cả nước và bộ máy luật pháp hiện hành không phù hợp trong việc hỗ trợ xác định và truy tố các trường hợp buôn người vẫn là những trở ngại chính để đạt được những bước tiến xa hơn trong nỗ lực chống buôn người.

Bảo vệ nạn nhân

Năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục các nỗ lực bền bỉ nhằm bảo vệ nạn nhân, đặc biệt là nạn nhân của các vụ buôn bán người xuyên biên giới vì mục đích tình dục. Tuy vậy, Chính phủ vẫn chưa hết sức nỗ lực trong việc xác định nạn nhân trong các nhóm dễ bị tổn thương, hay bảo vệ nạn nhân của các vụ buôn bán lao động hay buôn bán diễn ra trong nước. Các kế hoạch bảo vệ nạn nhân được nêu trong Luật Phòng chống Mua bán người vẫn chưa được triển khai. Chính phủ chưa xây dựng hay áp dụng các quy trình hệ thống trên phạm vi toàn quốc để chủ động nhận diện hiệu quả các nạn nhân của nạn buôn người trong những nhóm dễ bị tổn thương, ví dụ như phụ nữ bị bắt vì hành nghề mại dâm, hoặc lao động di cư hồi hương. Các nỗ lực nhận diện nạn nhân vẫn còn yếu ở tất cả các luồng nhập cư và buôn người được xác định.

Không có số liệu đáng tin cậy về số lượng nạn nhân của nạn buôn người được xác định trong năm báo cáo tường trình. Tuy nhiên, Ủy ban chỉ đạo quốc gia về phòng chống mua bán người của Việt Nam cho biết các cơ quan chính quyền đã xác định được 430 người Việt Nam là nạn nhân của nạn mua bán người, 250 nạn nhân khác do Chính phủ các nước khác hoặc các tổ chức phi chính phủ xác định và đã được hồi hương, và 120 nạn nhân tự xác định là đã bị mua bán. Các số liệu ước tính này bao gồm một số trường hợp trẻ em bị bắt cóc và bán làm con nuôi. Phần lớn các nạn nhân được xác định là phụ nữ và trẻ em. Tuy vậy, lực lượng biên phòng cho biết họ đã giải cứu và hỗ trợ ít nhất tám nạn nhân là nam giới trưởng thành. Một tổ chức phi chính phủ cho biết toàn bộ 27 nạn nhân họ đã hỗ trợ và được hồi hương trong năm đã bị bóc lột tại Ma-lai-xi-a hoặc Thái Lan. Không có thông tin về các nạn nhân được hồi hương khác, chẳng hạn như quốc gia nơi họ đã bị bóc lột; trong số này có 48 nạn nhân mà Chính phủ cho biết đã được các đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài hỗ trợ. Các đại sứ quán chỉ cung cấp các tài liệu tối thiểu để đưa nạn nhân hồi hương. Các hỗ trợ cung cấp cho nạn nhân dựa trên từng trường hợp cụ thể, từ hỗ trợ chỗ ăn ở cho đến hỗ trợ tài chính và hành chính tùy theo nhu cầu của họ. Các hỗ trợ tài chính được cung cấp thông qua Quỹ bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài. Chính quyền tiếp tục thực hiện hành vi cưỡng ép lao động đối với những người nghiện ma túy và những người từng hành nghề mại dâm tại các trại cải tạo. Trong năm báo cáo, một tổ chức phi chính phủ quốc tế đã ghi nhận một số lượng ít các trường hợp cá nhân trong các trại cải tạo này bị đánh đập hoặc lạm dụng thể chất do không hoàn thành chỉ tiêu công việc. Chính phủ cho biết sẽ không xây thêm các trung tâm mới, nhưng các quy định hiện tại vẫn cho phép sử dụng biện pháp “lao động trị liệu” đối với những người tại các trung tâm hiện tại do Chính phủ quản lý. Mặc dù các nhà chức trách có các quy trình chính thức tiếp nhận nạn nhân bị mua bán và chuyển họ đi chăm sóc nhưng hệ thống này nhìn chung có rất nhiều bất cập, không thể xác định được những nạn nhân không trở về qua các cửa khẩu biên giới chính thức và những nạn nhân không muốn bị các nhà chức trách nhận diện do sợ dư luận xã hội hoặc vì các lý do khác. Chính phủ không cung cấp các hình thức bảo vệ pháp lý đầy đủ hoặc hỗ trợ cho các nạn nhân bị cưỡng ép lao động ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Trong năm, có hơn 88.000 lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài thông qua các hợp đồng chính thức. Tổng số người Việt Nam lao động ở nước ngoài ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ ước tính khoảng 500.000 người. Tháng 11/2011, Việt Nam đã ký kết thỏa thuận song phương với Chính phủ Belarus về tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyển dụng người lao động Việt Nam tại Belarus. Chính phủ cho biết đang tiến hành dự thảo một thỏa thuận tương tự với Israel. Tuy nhiên, không rõ các điều khoản về phòng chống và bảo vệ nạn nhân của nạn mua bán người có được đưa vào các thỏa thuận ký kết với chính phủ các nước có nhu cầu tuyển lao động hay không. Việt Nam vẫn duy trì vị trí tùy viên lao động ở 9 quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam nhiều nhất, nhưng lại không có sứ quán ở một số nước nơi có những báo cáo về buôn người. Tại một số quốc gia có đại sứ quán của Việt Nam, các cán bộ ngoại giao còn phản ứng yếu ớt trong việc bảo vệ người lao động di cư; Chính phủ xác nhận rằng các cán bộ ngoại giao còn chưa được tập huấn đầy đủ và giám sát về vấn đề này. Các quy định của Chính phủ không cấm các công ty tư nhân giữ hộ chiếu của người lao động ở nước tiếp nhận, và được biết các công ty Việt Nam cũng đã tịch thu giấy thông hành của người lao động, đây được coi là một trong những hành vi tiếp tay cho nạn buôn người. Chính phủ không công bố số liệu về các trường hợp lãnh sự quán hoặc các cán bộ khác đã xác định hoặc hỗ trợ người Việt Nam bị cưỡng ép lao động tại nước ngoài. Mặc dù về nguyên tắc người lao động có quyền khởi kiện các công ty xuất khẩu lao động, nhưng trên thực tế không có dấu hiệu nào cho thấy các nạn nhân được bồi thường tại các tòa án Việt Nam trong các vụ kiện này.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, phối hợp với các tổ chức phi chính phủ và các quỹ do nước ngoài tài trợ, tiếp tục điều hành ba nhà tạm lánh cho nạn nhân buôn người ở các khu đô thị lớn nhất đất nước; các nhà tạm lánh này đã tư vấn và đào tạo nghề cho các nạn nhân nữ bị buôn bán vì mục đích tình dục. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và cán bộ biên phòng cũng thành lập các nhà tạm trú nhỏ hơn để hỗ trợ tạm thời cho những lao động di cư cần giúp đỡ tại một số cửa khẩu lớn. Đôi khi, nạn nhân được sắp xếp ở tại các trung tâm bảo trợ xã hội của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nơi dành cho nhiều nhóm người dễ bị tổn thương, mặc dù các cán bộ thừa nhận rằng các nạn nhân sẽ được chăm sóc tốt hơn tại các cơ sở dành riêng cho những người bị mua bán. Ở nhiều nơi, các nhà tạm lánh rất thiếu thốn, thiếu kinh phí hoạt động và thiếu cán bộ được đào tạo cơ bản. Chính phủ đã dành một khoản ngân sách tương đương với 1.600.000 đô-la Mỹ trong vòng 5 năm cho các nỗ lực bảo vệ nạn nhân bị mua bán. Tháng 2/2012, Chính phủ ban hành hướng dẫn sử dụng và quản lý những quỹ này, nhưng không rõ liệu những quỹ này đã được phân bổ hay chưa. Năm 2011, Chính phủ đã thực hiện những hoạt động tiền đề để triển khai bộ Tiêu chuẩn Tối thiểu Quốc gia về các dịch vụ cung cấp cho các nạn nhân bị của nạn buôn người. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tập huấn cho các cán bộ tại 13 tỉnh thành về các tiêu chuẩn này; tuy nhiên, việc triển khai các hướng dẫn một cách chính thức trên phạm vi cả nước hiện vẫn bị trì hoãn do các nghị định và thông tư liên quan về bảo vệ nạn nhân theo Luật Phòng chống Mua bán người vẫn chưa được ban hành. Hiện vẫn chưa có nhà tạm trú hay dịch vụ nào dành riêng cho nạn nhân buôn người là nam giới, trẻ em hoặc nạn nhân bị buôn bán vì mục đích lao động, mặc dù các nhà tạm trú hiện có vẫn cung cấp dịch vụ cho một số nạn nhân là nam giới và trẻ em. Các tổ chức phi chính phủ cho biết một số nạn nhân không muốn ở trong những cơ sở hỗ trợ nạn nhân hoặc tiếp nhận các dịch vụ xã hội do lo sợ bị xã hội kỳ thị vì bị nhận diện là nạn nhân của nạn mua bán người. Các nạn nhân của nạn mua bán người được hưởng trợ cấp tiền mặt tương đưới với 50 đô-la Mỹ thông qua chính quyền địa phương. Chính phủ không cung cấp số liệu về số lượng nạn nhân được hưởng trợ cấp này, nhưng ước tính có khoảng 60% nạn nhân được nhận diện đã được hỗ trợ. Chính phủ tiếp tục hỗ trợ cung cấp địa điểm đặt văn phòng và nhân sự cho các tổ chức quốc tế thực hiện các dự án phòng chống mua bán người.

Chính phủ khuyến khích các nạn nhân hỗ trợ quá trình truy tố những kẻ đã buôn bán họ, nhưng nhìn chung Chính phủ không có chương trình bảo vệ nhân chứng có sự tham gia hỗ trợ của lực lượng an ninh. Các tổ chức phi chính phủ cho biết có 44 nạn nhân tham gia vào quá trình truy tố hình sự trong năm 2011. Các nạn nhân thường miễn cưỡng tham gia các vụ điều tra hoặc xét xử do lo sợ bị xã hội kỳ thị, đặc biệt khi liên quan tới mại dâm, sợ bị trả thù khi trở lại địa phương và do thiếu động lực để tham gia các hoạt động này. Đôi khi các nạn nhân nhận được những khoản bồi thường nhỏ từ những đối tượng mua bán người, nhưng không có số liệu cho biết mức độ thường xuyên có các trường hợp bồi thường này. Pháp luật Việt Nam bảo vệ nạn nhân buôn người khỏi những cáo buộc hình sự về những hành vi là hậu quả trực tiếp của việc bị buôn bán; tuy nhiên, do nỗ lực nhận diện nạn nhân trong nhóm những người dễ bị tổn thương chưa đầy đủ nên một số nạn nhân có thể bị coi là đối tượng vi phạm pháp luật. Không có lựa chọn pháp lý nào khác cho việc đưa các các nạn nhân nước ngoài tới những nước mà họ phải đối mặt với việc bị trả thù hay tình trạng cùng quẫn.

Ngăn chặn việc buôn bán người

Với sự hỗ trợ và hợp tác từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ nước ngoài, chính phủ Việt Nam đã tăng cường nỗ lực ngăn chặn tình trạng mua bán người. Tháng 8/2011, Thủ tướng đã phê duyệt Kế hoạch Hành động Quốc gia 5 năm về Phòng chống Mua bán người được thông qua hồi đầu năm. Tháng 12/2011, Bộ Ngoại giao đã ra mắt trang thông tin điện tử về di cư, cho phép những người có ý định nhập cư tiếp cận với các hướng dẫn pháp lý áp dụng đối với các công ty tuyển dụng lao động; tuy nhiên, chính phủ vẫn chưa tăng cường nỗ lực để thực thi các quy định này và nhìn chung các nỗ lực quản lý các công ty tuyển dụng lao động và môi giới hôn nhân vẫn còn yếu kém. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết trong năm 2011, Chính phủ đã điều tra 38 công ty tuyển dụng lao động và xử phạt 15 công ty do sai phạm về quản lý hành chính với mức phạt rất thấp, từ 750 đến 2.000 đô-la Mỹ. Một số sai phạm được coi là dấu hiệu của hành vi mua bán người, chẳng hạn như thu phí tuyển dụng quá cao, nhưng không một trường hợp nào bị xác định là mua bán người sau khi sai phạm được phát hiện và cũng không có công ty tuyển dụng lao động nào bị truy tố hình sự. Chính phủ đã tổ chức hai hội thảo tập huấn cho các nhân sự điều hành du lịch để nâng cao nhận thức của họ đối với hoạt động du lịch mại dâm trẻ em. Chính quyền không thông tin về bất kỳ nỗ lực nào khác nhằm giảm cầu về mại dâm hoặc cưỡng ép lao động. Việt Nam chưa tham gia Nghị định thư về Chống Buôn người năm 2000 của Liên Hợp Quốc.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: