Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1985/Phần chung/Chương VIII

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Điều 68. áp dụng Bộ luật hình sự đối với quân nhân phạm tội.[sửa]

Đối với quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập chung huấn luyện, nếu phạm tội thì áp dụng những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này.

Điều 69. Tạm hoãn, miễn hoặc giảm việc chấp hành hình phạt.[sửa]

Quân nhân phạm tội ít nghiêm trọng, nếu do nhu cầu chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu mà được người chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên đề nghị cho ở lại đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ, thì có thể được Toà án cho tạm hoãn việc chấp hành hình phạt từ sáu tháng đến một năm. Hết thời hạn đó, Toà án sẽ căn cứ vào thái độ sửa chữa hoặc kết quả lập công của người phạm tội mà miễn hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt hoặc buộc phải chấp hành toàn bộ hình phạt đã tuyên.

Điều 70. Cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội.[sửa]

1- Cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội là hình phạt chính được áp dụng từ sáu tháng đến hai năm đối với quân nhân tại ngũ phạm tội ít nghiêm trọng.

Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, cứ một ngày tạm giam bằng ba ngày cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội.

2- Đối với người phạm tội không phải là quân nhân tại ngũ, trong trường hợp điều luật quy định hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, thì áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ quy định ở Điều 24.

Điều 71. Tước danh hiệu quân nhân.[sửa]

Tước danh hiệu quân nhân là hình phạt bổ sung có thể được áp dụng với quân nhân phạm tội nghiêm trọng do cố ý.

Người bị tước danh hiệu quân nhân đương nhiên bị xoá tuổi quân và bị tước quyền lợi mà bản thân quân nhân và gia đình được hưởng về quân nhân đó.