Biên dịch:Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí  (1173) 
của Không rõ, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
Bia Phụng Thánh phu nhân Lê Thị Mộ Chí được đặt ở tòa tiền đường chùa Phúc Thánh, xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ. Bia viết về tiểu sử của bà Phụng Thánh phu nhân Lê Thị Lan Xuân, thứ phi của vua Lý Thần Tông.
Nguyên văn Phiên âm Hán - Việt
奉 聖 夫 人 黎 氏 墓 誌


皇 越 奉 聖 夫 人 黎 氏 墓 誌 洺 栟 序


神宗仁孝皇帝夫人黎氏。諱蘭春。即輔天大王之季女也。母曰瑞聖公主。譽宗正皇之孟女也。長婆曰瑞聖公主即聖宗皇帝之孟女也。祖駙驥尉真簦洲寶所覌察使。即禦蠻大王之親垤。寔黎家大行皇帝之孫。輔天大王者。有子息二十員。太后一。夫人三。公主四。太子等一十有二。

天彰寶嗣二年甲寅Ø皇蒂初納大王孟女婆感聖皇太后。見夫人姿美。兼有四教。又聘之為妃。暫入公宮而明之婦道。先登宗室而體錮陰風。服用必中度。言動必中節。

四年丙辰進冊奉聖夫人。是時堌之心行。節史史之化修。採蘩之職不失。小星之惠及下。協皇英之嬪虞。贊襄皇猷。猶任姜輔週。先瘍帝道。

五年丁巳號送宮車。誓留陵寢。執匪懈之心而現。莫修行上道而教虞。夫人貌端鍥瘈而性深靜。喜怒不形於色。使人則以悅留。無衰䇲迫。殆今上即位。太后輔政。每朔望則詣朝。上篤敬之。與言則極情無愆。卜來頗有私謁。上及皇太后常幸其宮室。見其舉置。嘉其為人而歎曰。古之明世夫人。人有每一諱。景信恭順合禮。位亞維城。家業皆篤於敬。常念衣錦之鄉祖不忘。奉願啟勝緣以答先聖之眷遇。迨終則砭其惻以邇先人之榮。禮也。乃卜中冮洲落。唯歲豐鄉為休。崗巒灒秀而環列。冮湖清碧而帶繞。獲陰陽向背之圖。糍虎龍抱揖之勢。特蒙聖旨。給賜人工。擢材瓦而立寶所。斧藻雲畢而香火不息之其顧也尊。

政隆寶應九年九月。夫人寢疾。上親視藥餌。百而弗廋。以當年十月十八日己未之晨薨。年六十有三。上為之震悼。裰朝減羶。乃敕降賵鵑之物也具於常。可謂哀榮之禮有加。詔太傅陳公。洎內恃省奉議郎黎公監護喪葬。密究歸厚示如昭聖皇後之故事。

十一年冬。十二月初八日丙寅之晨。恩旨別葬於地鄉所。璞山。延齡福聖寺之西隅。乃命國史述此芳猷。志於墓石。

銘曰。

龍盤虎伏孕秀氣,
中冮往往產豪貴。
夫人懿行顯當時,
神婆綽約合為異。
玉摟台宮室亞後,
心同琹瑟無妒忌。
宮車宴駕奉陵寢,
使無風雨難塗至。
日過高山氣奄奄,
人間痛惜潸然淚。
歲豐新墓立貞緡,
傳民悠久千萬世。

碑陰


進開于后:

(政)隆寶應九年九月十八日己未之晨

皇越 奉聖夫人黎氏墓誌

神宗仁孝皇帝

輔天大王之季女也,母曰 瑞聖公主,長婆感曰,三寶田池給賜,而香火流傳萬代,壹坐落池頭停處,壹田坐落舉午處,壹田坐落  處,照如內碑。

後而弗瘳,以當年十月十八日之晨忌禮。

一付與鄉村守墓石不息。之其顧也尊敬事。

一修造延靈福聖寺,在西隅,英靈大名藍古跡。

Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí


Hoàng Việt Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chi minh tính tự


Thần Tông Nhân Hiếu Hoàng đế phu nhân Lê thị, húy Lan Xuân, tức Phụ Thiên Đại Vương chi quý nữ dã. Mẫu viết Thụy Thánh Công chúa, Dự Tông chính hoàng chi mạnh nữ dã. Trưởng bà viết Thụy Thánh công chúa tức Thánh Tông hoàng đế chi mạnh nữ dã. Tổ Phò ký úy Chân Đăng châu bảo sở Quan sát sứ, tức Ngự Man Đại Vương chi thân điệt, thực Lê gia Đại Hành Hoàng đế chi tôn. Phụ Thiên Đại Vương giả hữu tử tức nhị thập viên, Thái hậu nhất, Phu nhân tam, Công chúa tứ, Thái tử đẳng nhất thập hữu nhị.

Thiên Chương Bảo Tự nhị niên Giáp Dần, hoàng đế sơ nạp Đại vương mạnh nữ, bà Cảm Thánh Hoàng Thái hậu. Kiến phu nhân tư mỹ, kiêm hữu tứ giáo, hựu sính chi vi phi. Tạm nhập công cung nhi minh chi phụ đạo, tiên đăng tông thất nhi thể cố âm phong. Phục dụng tất trúng độ, ngôn động tất trúng tiết.

Tứ niên Bính thìn tiến sách Phụng Thánh phu nhân. Thị thời cố chi tâm hạnh, tiết sử sử chi hóa tu, thái phồn chi chức bất thất, tiểu tinh chi huệ cập hạ. Hiệp Hoàng Anh chi tần Ngu, tán tương hoàng du ; do Nhâm Khương chi phụ Chu, tuyên dương đế đạo.

Ngũ niên Đinh tỵ, hào tống cung xa, thệ lưu lăng tẩm. Chấp phỉ giải chi tâm nhi hiện, mạc tu hành thượng đạo nhi giáo ngu. Phu nhân mạo đoan khiết nhi tính thâm tĩnh, hỉ nộ bất hình ư sắc, sử nhân tắc dĩ duyệt lưu, vô suy sách bách. Đãi kim thượng tức vị, thái hậu phụ chính, mỗi sóc vọng tắc nghệ triều. Thượng đốc kính chi, dữ ngôn tắc cực tình vô khiên. Bốc lai, phả hữu tư yết. Thượng cập Hoàng thái hậu thường hạnh kỳ cung thất, kiến kỳ cử trí, gia kỳ vi nhân nhi thán viết "Cổ chi minh thế phu nhân". Nhân hữu mỗi nhất húy, cảnh tín cung thuận hợp lễ. Vị á duy thành, gia nghiệp giai đốc ư kính. Thường niệm ý cẩm chi hướng tổ bất vong. Phụng nguyện khải thắng duyên dĩ đáp tiên thánh chi quyến ngộ. Đãi chung tắc biếm kỳ trắc dĩ nhĩ tiên nhân chi vinh, lễ dã. Nãi bốc trung giang châu lạc, duy Tuế Phong hương vi hưu. Cương loan tán tú nhi hoàn liệt ; giang hồ thanh bích nhi đới nhiễu. Hoạch âm dương hướng bối chi đồ; tư hổ long bão ấp chi thế. Đặc mông thánh chỉ, cấp tứ nhân công, trạc tài ngõa nhi lập bảo sở. Phủ tảo vân tất, hương hỏa bất tức chi kỳ cố dã tôn.

Chính Long Bảo Ứng cửu niên cửu nguyệt, phu nhân tẩm tật. Thượng thân thị dược nhĩ, bách nhi phất sưu. Dĩ đương niên thập nguyệt thập bát nhật Kỷ mùi chi thần hoăng, niên lục thập hữu tam. Thượng vị chi chấn điệu, xuyết triều giảm thiện. Nãi sắc giáng phúng quyên chi vật dã cụ ư thường, khả vị ai vinh chi lễ hữu gia. Chiếu Thái phó Trần công, kỵ Nội thị sảnh Phụng nghị lang Lê công giám hộ tang táng. Mật cứu quy hậu thị như Chiêu Thánh hoàng hậu chi cố sự.

Thập nhất niên đông, thập nhị nguyệt sơ bát nhật Bính dần chi thần, ân chỉ biệt táng vu địa hương sở, Phác Sơn, Diên Linh Phúc Thánh tự chi tây ngung. Nãi mệnh quốc sử thuật thử phương du, chí vu mộ thạch.

Minh viết:

Long bàn hổ phục dựng tú khí,
Trung giang vãng vãng sản hào quý.
Phu nhân ý hạnh hiển đương thì,
Thần bà xước cước hợp vi dị.
Ngọc lâu đài cung thất á hậu,
Tâm đồng cầm sắt vô đố kỵ.
Cung xa yến giá phụng lăng tẩm,
Sử vô phong vũ nan đồ chí.
Nhật quá cao sơn khí yêm yêm,
Nhân gian thống tích sán nhiên lệ.
Tuế Phong tân mộ lập trinh mân,
Truyền dân du cửu thiên vạn thế.

Bi âm


Tiến khai vu hậu:

(Chính) Long Bảo Ứng cửu niên cửu nguyệt thập bát nhật Kỷ Vị chi thần

Hoàng Việt Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí

Thần Tông Nhân Hiếu Hoàng đế

Phụ Thiên Đại vương chi quý nữ dã, mẫu viết Thụy Thánh công chúa, trưởng bà Cảm viết, tam bảo điền trì cấp tứ, nhi hương hỏa lưu truyền vạn đại, nhất tọa lạc trì Đầu Đình xứ, nhất điền tọa lạc Cửa Ngõ xứ, nhất điền tọa lạc Bến Sông xứ, chiếu như nội bi.

Hậu nhi phất sưu, dĩ đương niên thập nguyệt thập bát nhật chi thần kị lễ.

Nhất phó dữ hương thôn thủ mộ thạch bất tức. Chi kì cố dã tôn kính sự.

Nhất tu tạo Diên Linh Phúc Thánh tự, tại Tây ngung, anh linh đại danh lam cổ tích.

Dịch nghĩa

Mộ chí phu nhân Phụng Thánh họ Lê
Bài minh kèm theo lời tựa trên mộ chí của phu nhân Phụng Thánh họ Lê nước Hoàng Việt

Phu nhân của Thần Tông Nhân hiếu hoàng đế, họ Lê húy là Lan Xuân, con gái út của Phụ Thiên Đại Vương. Mẹ[1] là công chúa Thụy Thánh, con gái cả của Dự Tông chính hoàng[2]. Lớn lên, bà làm con gái cả của Thánh Tông Hoàng đế, vẫn gọi là công chúa Thụy Thánh[3]. Ông nội, Phò ký úy Quan sát sứ ở bảo sở châu Chân Đăng[4], tức là cháu gần của Ngự Man Đại Vương[5], là cháu nội của Đại Hành Hoàng đế nhà Lê. Phụ Thiên Đại Vương có hai mươi người con : một thái hậu, ba phu nhân, bốn công chúa, mười hai thái tử[6].

Năm Giáp Dần, Thiên Chương Bảo Tự thứ hai (1134), lúc đầu hoàng đế lấy con gái cả của Phụ Thiên Đại Vương, bà Cảm Thánh hoàng thái hậu[7]. Thấy phu nhân có nhan sắc và tứ giáo[8], hoàng đế lại đón về làm phi. Mới vào trong cung đã hiểu rõ đạo lý làm vợ, lên trên tông thất thì giữ bền phong độ nữ lưu. Ăn mặc điểm trang ắt đúng độ, nói năng cử chỉ ắt đúng phép.

Bính Thìn, năm thứ tư (1136) được tiến phong Phụng Thánh phu nhân. Bấy giờ phu nhân giữ bền tâm hạnh, thời thường lại sửa mình theo giáo hóa, bổn phận dâu hiền[9] không hề thiếu sót, ân huệ lễ mọn cũng thấm xuống dưới. Sánh ngang Hoàng Anh vợ Thuấn[10], dâng lời phò trí giúp mưu , giống như Nhâm Khương giúp Chu[11], trước hết nêu cao đế đạo.

Đinh Tỵ, năm thứ năm (1137), gào khóc đi theo xe tang[12], nguyện ở lại trông lăng tẩm. Lòng không trễ biếng mà vẫn rõ ràng, tu đâu Thượng đạo[13] mà giáo hóa hoàn bị. Phu nhân dung nhan đoan chính, tính tình kín đáo ; mừng giận không lộ ra hình sắc, dùng người khiến vui mà ở lại, chẳng cần roi vọt bức bách. Đến khi đức kim thượng lên ngôi, thái hậu phụ chinh, thường sóc vọng đều đến dự chầu. Kim thượng một lòng kính mến, chuyện trò rất mực ân cần mà không điều gì lầm lỗi. Mỗi khi dự tính việc gì, đều yết kiến riêng. Vua và hoàng thái hậu thường đến tư thất, thấy việc nhà nề nếp, bèn khen phẩm cách và than rằng "Bậc phu nhân thời thịnh trị ngày trước". Đối với tật riêng từng người, vẫn giữ được tấm lòng cung thuận, hợp lễ ; danh vọng sánh ngang các bậc vương công mà nếp nhà vẫn một niềm cung kính. Thường vinh hiển thì không quên tiên tổ, cội nguồn nguyện được mở thắng duyên để đền đáp ơn quyến ngộ của tiên thánh. Lại mong khi từ giã cõi đời được gần gũi mẹ cha, ấy là lễ vậy. Thế rồi chọn vùng xóm bãi giữa sông, được hương Tuế Phong là nơi đất đẹp. Núi đồi thanh tú vây quanh ; sông hồ biếc trong bao bọc. Được hướng nhìn sông dựa núi, nhờ thế rồng ấp hổ chầu. Đặc ân thánh chỉ cấp nhân công, cho gỗ ngói để dựng bảo sở. Công việc chạm vẽ vừa xong thì khói hương không dứt, thật là ơn cao huệ cả của chúa thượng.

Tháng chín năm Chính Long Bảo Ứng thứ chín (1171), phu nhân lâm bệnh. Hoàng thượng thân hành thuốc thang cơm cháo, chạy chữa trăm cách bệnh vẫn không khỏi. Sáng sớm ngày kỷ mùi mười tám tháng mười năm ấy, phu nhân tạ thế, thọ sáu mươi ba tuổi. Kim thượng rất thương xót, bỏ triều giảm ăn. Sắc ban lễ phúng gấp bội lệ thường, có thể gọi là lễ tang rất hậu. Chiếu sai Thái phó họ Trần, Nội thị sảnh Phụng nghi lang họ Lê trông coi việc tang việc táng, mật dụ theo nghi thức của Chiêu Thánh hoàng hậu trước đây.

Sáng sớm ngày bính dần, mồng tám tháng chạp mùa đông năm thứ mười một (1173), ân chỉ biệt táng tại địa phương, núi Phác Sơn, phía tây chùa Diên Linh Phúc Thánh. Lại sai quốc sử thuật đạo đức tốt đẹp ấy ghi vào bia mộ.

Minh rằng:

Rồng cuộn hổ chầu chất chứa khí đẹp,

Đất giữa dòng luôn luôn sinh người quý hiển hào kiệt

Đức hạnh phu nhân rực rỡ đương thời,

Thần bà duyên dáng hợp thành sự linh dị.

Lâu đài cung thất ngọc vàng, sánh ngôi á hậu,

Tâm đồng cầm sắt hài hòa, không lòng ghét ghen.

Xa giá quy tiên, ở lại thờ phụng lăng tẩm,

Khiến cho gió mưa không hủy hoại được.

Mặt trời khuất sau núi cao, khí âm u,

Người đời thương tiếc, tuôn giọt lệ.

Dựng bia trên ngôi mộ chưa xanh cỏ ở hương Tuế Phong,

Truyền cho dân giữ mãi nghìn vạn đời.

Mặt sau bia

Cung tiến khai vào mặt sau

Sáng sớm ngày Kỉ Vị mười tám tháng chín niên hiệu (Chính) Long Bảo Ứng năm thứ chín (1171)

Mộ chí phu nhân Phụng Thánh nước Hoàng Việt

Thần Tông Nhân hiếu hoàng đế

Là con gái út của Phụ Thiên đại vương, mẹ là công chúa Thụy Thánh, trưởng bà Cảm viết[14], ban cho ruộng ao cúng tam bảo, làm hương hỏa lưu truyền vạn đời, một tọa lạc chỗ ao xứ Đầu Đình, một chỗ ruộng tọa lạc xứ Cửa Ngõ, một chỗ ruộng tọa lạc xứ Bến Sông, xem trong bia đã ghi.

Sau này không phải nộp sưu, hàng năm lấy ngày mười tám tháng mười làm ngày lễ kị của thần.

Một là giao phó cho hương thôn giữ bia mộ không được bỏ để ghi chuyện cũ mà tôn kính.

Nữa là tu tạo chùa Diên Linh Phúc Thánh, tại góc Tây, nơi anh linh cổ tích đại danh lam.

   




Chú thích

  1. Có lẽ ý chỉ mẹ của Phụ Thiên Đại Vương
  2. Không thấy vua Lý nào mang miếu hiệu Dự Tông nên có thể phỏng đoán đó là danh hiệu được con hay cháu ông truy tôn khi lên làm vua, giống như trường hợp Sùng Hiền Hầu được Lý Thần Tông truy tôn là Cung Hoàng đế. Theo sách Thiền uyển tập anh thì ni sư Diệu Nhân là con gái lớn của Phụng Càn Vương Lý Nhật Trung - con trai của vua Lý Thái Tông và là em (anh?) trai với vua Lý Thánh Tông. Bà được Thánh Tông nuôi trong cung, rồi gả cho châu mục châu Chân Đăng họ Lê. Hành trạng của ni sư Diệu Nhân rất giống với Thụy Thánh công chúa, mẹ của Phụng Thánh phu nhân. Phải chăng chính Phụng Càn Vương Lý Nhật Trung là Dự Tông chính hoàng ?
  3. Nguyên văn là Trưởng bà viết Thụy Thánh công chúa, Thánh Tông hoàng đế chi mạnh nữ dã. Có lẽ nên tách chữ trưởng và chữ ra để dịch như trên
  4. Nay thuộc tỉnh Phú Thọ
  5. Ngự Man Vương Lê Đinh, con trai thứ tư của Lê Đại Hành
  6. Công chúa và Thái tử ý chỉ Vương tử và Vương nữ của Phụ Thiên Đại Vương
  7. Cảm Thánh phu nhân, vợ vua Lý Thần Tông và là mẹ ruột của Lý Anh Tông. Như vậy, Phụng Thánh phu nhân vừa là mẹ kế vừa là dì ruột của Lý Anh Tông
  8. Công, dung, ngôn, hạnh
  9. Nguyên văn thái phồn, lấy chữ trong bài Thất nguyệt, Bân phong, Kinh Thi ; nghĩa là lấy lá rau phồn cho tằm ăn, ý nói người vợ đảm đang chăm lo việc nhà
  10. Nga Hoàng và Nữ Anh, hai người vợ của vua Thuấn
  11. Thái Nhâm là mẹ Quý Lịch, Thái Khương là mẹ Chu Văn Vương, đều có công với nhà Chu
  12. Vua Lý Thần Tông mất
  13. Đạo Thượng thừa, chỉ Phật giáo
  14. Chưa hiểu văn nghĩa, để tồn nghi

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công-Chia sẻ tương tự 3.0 Chưa chuyển đổi, cho phép sử dụng, phân phối, và tạo tác phẩm phái sinh một cách tự do, miễn là không được thay đổi giấy phép và ghi chú rõ ràng, cùng với việc ghi công tác giả gốc.

 

Tác phẩm này được phát hành theo các điều khoản của Giấy phép Tài liệu Tự do GNU.


Điều khoản sử dụng của Wikimedia Foundation yêu cầu văn bản được cấp phép theo GFDL được nhập sau tháng 11 năm 2008 cũng phải cấp phép kép với một giấy phép tương thích khác. "Nội dung chỉ khả dụng trong GFDL không được phép" (§7.4). Điều này không áp dụng cho phương tiện phi văn bản.