Chị Đào, Chị Lý/Chương 17

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Chị Đào, Chị Lý của Hồ Biểu Chánh
Chương 17: DỰNG LẠI NGHIỆP XƯA

Bà Ngọc muốn biết coi ông Thái bàn tính thế nào với Hương hào Điều mà bộ ông lạc quan quá, nên bà mời bà Hòa chiều bữa sau hết thảy qua nhà ăn cơm chung đặng nói chuyện cho tiện.

Chiều mùng 5 mới 4 giờ, ông Thái ngồi xe đã về tới nhà. Bãi trường Tết ba con còn nghỉ nên có ở nhà đủ hết.

Bà Hòa mừng chồng bà nói: ”Lên Bình Phước tôi thấy cuộc làm ăn tôi mê quá. Nếu trồng mía cho giáp đất hết mà làm đường thì có lợi to. Ngặt bây giờ ra mà làm thì phải xuất vốn nhiều. Cô Hai biểu mình hùn, cô chịu ra vốn, làm có lời chia hai với mình. Mình hùn với lỗ miệng mà mình chia lời, rủi có lỗ lã mình khỏi chịu, hùn như vậy coi kỳ quá nên tôi ái ngại. Phần tôi thì tôi lên xuống dòm chừng, có sẵn tôi bán, ấy việc đó tôi làm được chớ trồng mía với làm cho ra đường thiệt tôi dốt đặc, tôi không hiểu chi hết “.

Ông Thái cười và đáp:

- Cô Hai nói người có tiền thì hùn vốn, người biết làm thì hùn nghề, kẻ có của người có công, làm ra lợi thì chia với nhau cũng được. Mà tôi xin chia lời cho tôi một phần ba mà thôi, chớ tôi không chịu chia hai: tôi xử như vậy thì công bình, tôi không sợ mang tiếng lợi dụng lòng tin cậy của đàn bà góa mà đoạt của. Nhưng hôm cô Hai biểu hùn mà tôi ái ngại vì tôi không hiểu nhơn tâm của người vùng đó ra thể nào. Tôi sợ người ta có ác cảm với cô Hai về khoảng đời trước của cô; tôi còn sợ tôi chen vô giựt mồi ngon của Hương hào Điều ảnh oán phá hư việc. Tôi đã không có lợi mà tôi còn mang tiếng báo hại cho cô Hai hao tiền tốn của. Bây giờ tôi hết sợ rồi. Cô Hai dám ra tiền thì tôi làm lớn cho mà coi, làm kinh dinh, lời mỗi năm cả trăm ngàn chớ không phải ít.

- Vậy hả? Vậy qua nói chuyện với cô Hai. Cô có trông cha nó về đặng cô hỏi hôm qua cha nó nói chuyện với anh Hương hào Điều mà ý ảnh có nghịch hay không. Cô mời hết nhà mình chiều nay qua bển ăn cơm.

- Được thôi để qua bển nói chuyện rồi ăn cơm luôn.

Vợ chồng ông Thái sửa soạn đi qua nhà bà Ngọc, Đào với Lý đi theo đặng nghe tính việc làm ăn chơi. Duy có Tòng vì đã hứa đi chơi với bạn học, nên cỡi xe máy đi xuống Sài Gòn, hẹn sẽ về trước 6 giờ cho kịp ăn cơm.

Vô tới sân ông Thái tay cầm cuốn sổ của Hương hào, đứng xem mấy bồn bông với vợ. Đào với Lý đi luôn vô nhà cho bà Ngọc hay có cha mẹ qua. Bà Ngọc coi hai trẻ như con trong nhà. Biểu kêu bồi lo trà nước, bước ra thềm tiếp vợ chồng ông Thái và mời qua phòng khách đàn ông ngồi nói chuyện cho tiện.

Chủ khách vừa ngồi thì bà Ngọc liền hỏi ông Thái hôm qua nói chuyện với Hương hào Điều ông có cho ảnh hay ông hùn đặng coi trồng mía làm đường hay chưa và ảnh hay rồi coi bộ ảnh có buồn hay không.

Ông Thái quăng cuốn sổ lên bàn mà nói: “Tôi không có nói chuyện hùn hiệp gì hết. Khởi đầu tôi nói mấy tháng nay cô Hai than với tôi cô có đất trồng mía, trồng tới vài trăm mẫu được, ngặt cô yếu đuối lại không thạo, cô giao lại cho Hương hào coi làm, nếu có lợi thì chia nhau mà xài. Anh Hương hào không đủ sức nên hai ba năm nay ảnh làm không có lợi. Cô theo năn nỉ cậy tôi ra vốn mà trồng mía cho nhiều rồi sắp đặt xây cất lò đường lại cho đàng hoàng mới có lợi. Trước khi hứa lời với cô Hai, tôi muốn xem xét địa thế và nhơn tâm thể nào, nhứt là hỏi coi Hương hào sẵn lòng giúp tôi hay không rồi tôi mới liệu định. Hương hào kể rõ công việc của ảnh làm cho tôi nghe. Ảnh nói năm kia cô hai nhắn ảnh xuống nhà. Ông Phủ biểu ảnh thay mặt cho mướn đất trồng mía và lập lò đường lại, làm có lời thì chia hai. Ảnh thấy thời cuộc khó khăn, mà tiền bạc lại eo hẹp, ra làm không phải dễ. Đất bỏ hoang đã mấy năm, lò đường sụp đổ hết.

Năm đầu ngươi ở trong xóm trong làng mạnh ai nấy khoét một khoảnh mà trồng. Cỏ thì nặng, lại không có tiền mua phân, làm sao trồng nhiều cho được. Chừng đốn mía thì không có lò mà đạp đường, phải chở đi kiếm chỗ mà bán, khổ hết sức, bởi vậy ảnh không thâu tiền mướn đất được. Qua mùa sau, nhờ cô Hai xuất vốn ít ngàn, ảnh mới mua tro và mướn trồng được mươi mẫu. Ảnh rủ ren đốc phách người trong làng trồng với ảnh. Ảnh hứa ảnh sẽ cậy cô Hai ra tiền đặng cất lò đường lại và xin cô hai thâu tiền đất rẻ rẻ cho. Họ mới ráng mà trồng với ảnh, cộng chung hết gần được một trăm mẫu. Thấy có mòi được ảnh xuống xin cô Hai ra tiền thêm đặng ảnh cất lò đường lại. Cô đưa thêm sáu ngàn nữa. Ảnh tom góp cây vụn mấy nhà cũ, cậy mấy người trồng mía phụ với ảnh xây cất sơ sài lại mà làm đường đỡ trong ít năm. Tại ít tiền quá nên làm lớn không được, phần thì còn phải mướn trâu bò nữa. Tuy vậy mà mùa rồi ảnh trả hết các tiền tổn phí, còn lời được 20 ngàn. Ảnh truất số tiển của cô hai xuất 9 ngàn ra, còn dư 11 ngàn, ảnh chia hai, rồi đem xuống cho cô 5 ngàn rưỡi và trả 9 ngàn lại, cộng là 14 ngàn rưỡi. Phần của ảnh được 5 ngàn rưỡi dùng mua phân và mướn nhơn công làm mùa nầy được 30 mươi mẫu. Mấy người kia nhờ có lò họ đạp đường mà bán được. Ai cũng có chút đỉnh vốn nên mùa nầy họ mua tro mà trồng thêm, nhờ vậy mà hai trăm mấy chục mẫu đất mới trồng mía được giáp hết đó “.

Bà Ngọc nói: “Nếu lời anh Hương hào nói đó mà thiệt đúng như vậy thì ảnh có ăn xớt ăn bớt gì đâu “.

Ông Thái nói: “Ảnh nói rồi ảnh đưa sổ cho tôi coi. Đêm hồi hôm tôi thức dò lại các sổ xuất, các sổ thâu, thì đâu đó cũng y như vậy “.

Bà Hòa nói: “Hôm gần Tết cô Hai với mình lên, ảnh sợ cô Hai xem xét lại công việc làm mùa trước rồi lòi cái gian của ảnh ra, nên ảnh mua sổ về rồi suy tính làm cho thâu xuất phù hạp với số bạc ảnh đem cho cô Hai năm ngoái đó, đặng cô khỏi nghi gian lận “.

Ông Thái cười mà nói: “Tôi cũng biết nghi như bà vậy, mà tôi tin chắc thế nào ảnh cũng có liếm láp không nhiều thì ít. Nếu ảnh không lương lẹo, làm ngay thẳng như mực tàu, thì đâu có chỗ cho ông Ba Tự châm chích được. Mà thôi, chuyện đã qua rồi, thì bỏ luôn đi. Tiềm tàng quá ắt sanh rối rắm, chớ không dễ mà đòi thêm được. Muốn làm việc lớn thì phải quảng đại, đừng thèm kể tiểu tiết. Trong sổ ảnh có biên mùa nầy ai mướn đất mà trồng bao nhiêu, mướn với giá nào, ảnh biên đủ hết. Thấy ảnh cho mướn đất giá rẻ quá, tôi có hỏi ảnh tại sao vậy. Ảnh có cắt nghĩa cho tôi hiểu vì thời buổi khó khăn, lòng người biến đổi, nên phải nới tay không nên bóp gắt, phải dụ dỗ người ta đặng họ trồng cho hết, lần lần rồi sẽ tăng lên, mỗi năm thêm một chút. Cái ý đó khôn ngoan lắm, tôi chịu ngay, tôi không cãi. Làm ăn phải biết mềm dẻo. Phải biết tùy thời, mới khỏi thất bại “.

Bà Ngọc hỏi:

- Còn anh Hương hào chịu giúp nữa hay là xin rút lui. Ảnh nói thế nào mà hôm qua anh lạc quan quá vậy?

- Ảnh nói ảnh không có thế lực. Ngày trước ông Phủ kêu mà giao cho ảnh làm, cực chẳng đã ảnh phải vị tình lãnh mà làm. Không có tiền bạc, ảnh không thể làm lớn cho có lợi nhiều được. Nghe tôi lãnh mà làm cho hẳn hòi trồng mía cho nhiều, cất lò đường lại cho lớn, mua trâu bò, sắm đồ đạc cho đủ dùng thì ảnh mừng lắm. Ảnh sẵn lòng giao lại cho tôi đặng ảnh nhẹ lo. Ảnh chỉ xin để cho ảnh muớn mười mẫu đặng ảnh lo trồng cho kỹ, chở mía về lò cậy đạp cho có đường ảnh bán. Như lúc đạp đường có cần dùng ảnh ở gần ảnh coi sóc dùm cho tôi vậy thôi.

- Nếu vậy thì xuôi rồi. Anh mừng cũng phải.

- Nhưng mùa nầy chưa đốn mía, chưa góp tiền cho mướn đất chưa làm ra đường. Lại còn phải lo làm mùa tới nữa; phải chia đất lại thế nào để cho mình trồng mía cho nhiều mới có đường nhiều mà bán; lại phải kêu công cho đủ mà trồng cho mình, đó là hai điều khó, mình phải cẩn thận. Tôi hứa tôi chừa đủ đất cho ảnh trồng. Mà tôi khuyên ảnh cứ giúp tôi luôn, để thủng thẳng rồi sẽ hay. Tôi phải níu tạm ảnh lại đặng ảnh đừng phá mình chớ.

- Anh tính như vậy hay lắm.

- Tôi có bàn với ông Giáo Hiệp rồi. Từ tháng nầy tôi sẽ tăng số lương cho ổng đặng làm quản lý thế cho tôi về việc mua cây, bán đồ, để lúc nào trên sở cần phải có mặt tôi hàng ngày thì tôi đi coi sóc cho chu đáo. Sáng mai tôi phải khởi sự đi liền đặng sắp đặt đốn mía, sửa soạn lò, mướn trâu sắm đồ đựng đường mua tro…

- Hai chị em tôi đi hay không?

- Cô để cho tôi lo về cuộc trồng mía và đạp đường, cô đừng nói tới việc đó, làm như cô đã giao trọn quyền cho tôi vậy; tôi xuất phát, bày biểu, tôi tự do muốn làm sao thì làm. Cô có muốn đi thì lên chỉ biểu cho họ dọn dẹp sở vườn vậy thôi.

Bà Hòa hỏi:

- Sáng mai cha nó đi thì tôi vô tôi coi tiệm cho.

- Muốn vô thì vô chơi. Có ông Giáo Hiệp cũng xong. Mới ra Tết, chưa ai đặt hay mua bàn ghế. Thợ còn nghỉ.

Tòng đi chơi về nói chuyện lăng xăng với hai chị ngoài trước rồi dắt nhau vô nhà.

Trời đã sậm tối. Bà Ngọc biểu Đào vặn đèn lên cho sáng và biểu Lý thúc dọn cơm.

Trong bữa cơm bà cho ông Thái hay bà đã có mua sổ để biên số thâu xuất và tiền bà phát cho mấy người làm vườn hôm qua bà đã có coi cho Lý ghi vào sổ xuất về vườn tược rồi. Ông nói về số cuộc trồng mía và sửa lò đường ông có cần dùng bao nhiêu thì bà biên số bạc lớn bà xuất. Còn ông xuất mua thứ gì trả cho ai, hay làm việc gì, thì ông sẽ biên tỉ mỉ trong cuốn sổ riêng của ông. Sổ ấy ông giữ trong tiệm, có ông Giáo Hiệp giúp biên cho ông đặng thâu xuất bên nào cũng rành rẽ hết.

Ăn cơm rồi ông Thái từ mà về đặng ông đi vô Bà Chiểu. Bữa sau nhằm phiên Đào ngủ bên nhà bà Ngọc nên Đào ở lại, bà Hòa về với Lý và Tòng.

Thấy cuộc hùn làm ăn tấn hành có mòi xuôi thuận, bà Ngọc lấy làm đắc ý nên đêm đó bà cắt nghĩa mọi việc cho Đào hiểu, cũng như bà cắt nghĩa như đêm hôm trước vậy. Bây giờ bà vui vẻ hăng hái hoạt động chớ không rề rề trong nhà mà than đau ốm buồn rầu, chán nản như hồi hai nhà mới làm quen với nhau. Cùng với Đào bà bàn tính coi tới mùa mưa bà phải đặt giống cây gì mà trồng trong vười rồi bàn luôn qua sự cất nhà trên vườn đặng lên xuống có chỗ mà nghỉ.

Qua bữa sau Đào, Lý và Tòng bắt đầu đi học lại, bà Ngọc cho xe đưa ba trẻ đi học. Chừng xe trở về bà rủ bà Hòa đi vô tiệm chơi. Té ra vô tới đó, nghe ông Giáo Hiệp nói ông Thái đã đi lên sở hồi tảng sáng rồi, hai bà mới đi theo, tính lên coi mấy người làm vườn đã làm tới đâu.

Thấy ông Thái đương tính với Hương hào Điều về sự mướn người đốn mía, mướn xe kéo mía, lo sửa soạn lò đường, hai bà không dự vô nên đi lại nói chuyện với mấy người làm vườn.

Nền nhà cũ ông Ba Lự đã dọn dẹp sạch sẽ hết rồi. Cỏ cuốc cũng gần hết, chỉ còn có một liếp nữa, nội ngày mai sẽ xong, rồi đào gốc cây khô mà bỏ.

Ba người làm vườn xin làm tháng và xin cho lãnh trước mỗi người 500 đồng đặng mua gạo cho vợ con ăn. Họ nói dọn vườn xong rồi họ sẽ phụ bên lò đường và tới mùa mưa trồng mía họ sẽ làm luôn cho. Bà Ngọc thấy người ta đã sốt sắng giúp bà, lại trong sở công việc làm mãn năm, bởi vậy cần níu cả 3 người nầy để làm bộ hạ tin cậy. Bà mở bóp lấy đưa cho mỗi người 500 đồng liền, không cần hỏi tính tiền công một tháng là bao nhiêu.

Bà Ngọc hỏi ông Ba Lự tính giúp bà ăn tiền tháng hay giúp luôn cả năm và ông muốn lãnh trước bao nhiêu. Ông nói ba người kia còn trai trẻ, có nhà cửa vợ con, ăn cơm nhà đi làm nên tính mỗi tháng, tháng nào không có công việc làm thì họ nghỉ. Phận ông già rồi lại không có nhà cửa vợ con. Vậy ông muốn ở giúp bà luôn luôn, mỗi năm bà trả tiền công bao nhiêu cũng được, miễn đủ cho ông mua cơm gạo mà ăn và may áo quần mà mặc, có công việc thì ông làm. Ông không cần lãnh tiền trước, chừng nào ông cần dùng tiền bao nhiêu thì ông sẽ hỏi.

Bà Ngọc mừng quá. Bà nói với ông Ba Lự, rằng ông cứ tận tâm giúp bà, đừng lo sự tiền bạc vì bà biết ơn nghĩa. Bà sẽ coi ông như bà con trong nhà, bà sẽ chăm nom bề ăn ở cho ông luôn luôn. Bà cũng nói với ba người rằng sở mía, sở vườn, sở đường có công việc làm mãn năm. Nếu mấy anh chịu làm cho bà thì bà cũng chịu và bà hứa sẽ giúp bao bọc gia đình no ấm.

Hai bà nói chuyện rồi về trước đặng xe đi rước sắp nhỏ. Ông Thái bàn tính công việc với Hương hào Điều chưa rồi. Nên ông còn ở lại sau.

Không cần phải kể chuyện cho dài, muốn lập cuộc làm ăn thâu lợi cho lớn, trước hết phải gieo rắc thiện cảm để chinh phục nhơn tâm, phải ngó cho xa, phải biết cái khó mà tránh, phải dọn dẹp chông gai cho con đường êm ấm bằng thẳng bước tới mà dễ.

Chúng ta đã được thấy ông Thái có trí thông minh, có chí tiến thủ, mà ông lại có miệng lanh lợi, có mắt thấy xa, có tánh ôn hòa, có ý cẩn thận. Ông còn được lòng tín nhiệm hoàn toàn của bà Ngọc, là người có vốn nhiều, mà lại mang ơn nghĩa, phục tài trí của ông, nên ông biểu thế nào bà cũng làm theo hết thảy. Với những khả năng đó và những điều kiện đó, dầu không nói ra ai cũng biết trước công việc của ông Thái làm sẽ thành tựu mỹ mãn. Ông thành công tự nhiên ông có lợi, mà cả thảy chung quanh ông ai cũng có lợi đủ hết, bởi vậy bà Ngọc ra vốn nhiều mà bà không ngại, Hương hào Điều mất oai thế với lợi quyền mà ảnh không phiền, cho tới ông Ba Lự, mấy người làm công, mấy người mướn đất trồng mía, và cả thảy dân trong xóm trong làng ai cũng kính mến phục tùng ông Thái, không có một người nào phiền trách ông được.

Tới ngày đốn mía ông Thái lên sở mỗi bữa và đích ông coi làm từ ngoài ruộng vô trong lò. Hương hào Điều có mặt thì chạy bận làm những việc ông chỉ biểu như mướn dân đốn mía, mướn xe kéo về lò và mướn trâu ép mía vậy thôi.

Ông mua tro mà trữ để trồng mùa tới. Ông lên lái Thiêu mua khạp về đựng đường sản xuất mùa nầy. Trong lúc ép đường ông giao cho ông Ba Lự coi điều khiển cho người ta làm. Mía đốn sạch hết rồi ông mời hết những người mướn đất cũ tựu lại ông cắt nghhĩa rằng ép đường mùa nầy xong rồi ông sẽ dỡ bỏ lò nầy mà cất lại cho lớn, lợp ngói lót gạch đàng hoàng để sau ông mua máy đặng chạy cho mau. Chủ lò tự nhiên phải trồng mía nhiều. Anh em đã có công trồng mấy năm rồi. Vậy ông xin anh em tiếp tục trồng nữa đặng đem về lò mới mà đạp. Ông tính mùa nầy ông phải trồng 70 mẫu mới xứng với sở phí xây cất lò mới. Lại phải để cho anh Hương hào 10 mẫu theo lời ảnh xin. Còn lại 150 mẫu để cho anh em mướn mà trồng. Vì đường lên giá nhiều, theo lẽ chủ đất cũng tăng tiền mướn đất lên, ít nữa cũng phải bằng tỉ lệ cũ. Nghĩ vì anh em mới trồng lại một hai năm chưa khá lắm, nên ông để y giá rẻ đó thêm một mùa nữa, qua mùa sau rồi sẽ tăng. Ông biểu anh em nói cho ông biết coi trong số đất dư để cho mướn đó ai muốn mướn mấy mẫu. Nếu mướn không hết thì chủ lò trồng, dư bao nhiêu cũng được, vì ông đã có sẵn tro nhiều. Mấy người nghe nói không tăng giá mướn đất thì khoái, nhứt là nghe những lời nhơn nghĩa thì chịu lắm nên áp lại nói cho ông biên sổ. Người xin mướn 5 mẫu người 7 mẫu, người 10 mẫu, có người xin tới 12 và 15 mẫu. Ông biên đủ rồi ông cộng lại tới 170 mẫu, quá số đất dư tới 20 mẫu. Ông xin mấy người mướn trên 10 mẫu bớt dùm đặng anh em có đủ đất mà trồng với nhau cho vui. Ông lấy tình đoàn kết mà cắt nghĩa, làm cho ai cũng cảm, nên mấy người xin mướn nhiều chịu bớt xuống mười mẫu thành thử ai cũng có đất mà trồng hết nên ai cũng vui lòng.

Việc cho mướn đất mùa tới đã tính xong hết rồi. Ông Thái giao cho bà Ngọc với bà Hòa coi chừng lò đường, có ông Ba Lự thạo việc đó ông phụ giúp đắc lực, ông Thái đi đặt sầu riêng, chôm chôm, sa-bô-chê, xoài, mít cho sẵn đặng trời mưa thì trồng trong vườn, vì mấy liếp đã dọn sạch, mấy mương đã móc sâu, mội đã khai thông, rào đã đóng kín. Ông cũng mua hột trà đặng ương cho sẵn qua năm sau có mà đặt cho giáp hết mấy liếp. Ban đêm rảnh ông cậy ông Giáo Hiệp vẽ dùm bản đồ một dãy nhà 5 căn, lợp ngói, lót gạch đặng mùa nầy ép đường bán hết rồi thì cất lò đường lại cho đàng hoàng.

Bà Hòa lãnh phần đi các vựa giảo giá đặng mà bán đường. Có một vựa ở chợ Ông Lãnh chịu mua giá cao hơn hết là 1 200 đồng 100 kílô, lại chịu cho xe cam nhông đến lò mà chở. Bà bàn tính với bà Ngọc và ông Thái, Hương hào Điều nói năm trước anh bán 100 kílô có 902.

Ai nấy đều chịu giá một 1 200.

Mấy người trồng mía đem vô lò mướn ép phần nhiều họ đem đường về cho vợ con ngồi chợ bán lẻ được giá cao hơn. Nhưng cũng có ít người cân rồi giao cho chủ lò bán sỉ dùm cho mau lại khỏi thất công gánh đi bán.

Đường bán xong hết rồi ông Thái mới tính sổ. Bên xuất phải tính 5 ngàn của Hương hào Điều mua tro và mướn trồng mía hôm đầu mùa, cộng với tiền mướn đốn mía chở về lò, tiền mướn lò ép đường như người ta và tiền mướn đất, cả thảy là 7.500.

Bà thâu mùa nầy tuy cho mướn đất giá rẻ song làm có lợi khá nên ai cũng đóng đủ hết. Cộng tiền cho mướn đất với tiền ép đường là 12 ngàn. Bán đường được 54 ngàn. Cộng chung là 66 ngàn.

Một buổi chiều ông Thái đem hết tiền bạc và sổ thâu xuất ra nhà trình cho bà Ngọc xem xét rồi chia lời cho Hương hào Điều. Ông nói trước khi chia bà phải truất riêng ra cho phần bà 12 ngàn là tiền mướn đất 7 ngàn và tiền ép đường của lò 5 ngàn. Cũng phải truất mà trả lại cho Hương hào Điều 5 ngàn đồng là tiền của ảnh xuất hồi đầu mùa đặng mua phân và mướn nhơn công trồng mía, trừ hai số đó ra là 17 ngàn thì còn lại (66.000-17.000)= 49 000, bà chia hai với Hương hào Điều mỗi người 24.500 đồng.

Bà Ngọc la lớn:

- Chia hai sao được. Chia như vậy Hương hào Điều được tới 24 ngàn rưỡi với 5 ngàn nữa là 29 ngàn rưỡi, nhiều quá.

- Thì phần cô cũng được 24 ngàn rưỡi với 12 ngàn cộng 36 ngàn rưỡi, càng nhiều hơn ảnh.

- Còn công anh cực khổ mấy tháng nay phải chia cho anh một phần mới công bình chớ.

- Đây là sổ suy tính về mùa rồi. Còn tôi làm thuộc về mùa tới. Có chia lời cho tôi thì phải chờ sang năm kia chớ. Mấy tháng nay tôi làm ấy là tôi giúp riêng cho cô mà kiểm soát cho khỏi hao hớt, lại cũng dọn đường cho êm ấm mà làm về sau. Mùa nầy thuộc của anh Hương hào Điều làm, có lợi thì ảnh hưởng, tôi thì kể công mà chia coi kỳ quá.

- Hương hào làm giống gì? Trồng mía rồi thôi. Công việc mấy tháng nay, anh làm hết, anh lo từ chút. Phải chia cho anh một phần mới được.

- Cô đã giao với Hương hào hễ làm có lợi thì chia hai. Cô nên giữ lời giao kết cho đến cùng. Mùa tới ảnh mướn 10 mẫu đất mà trồng riêng, ảnh không coi sở cho cô nữa. Cô phải làm cho ảnh vui lòng đặng khỏi tiếng oán.

- Tôi muốn trong số 49 000 đó phải chia làm ba, đặng anh hưởng một phần là 16.300 đồng, hưởng tiền mùa nầy. Anh Hương hào được 16.300 với 5 ngàn kia nữa, cộng 21 ngàn rưỡi đã nhiều qua rồi. Ảnh giúp cho tôi có hai mùa, mà tôi ra tiền cho ảnh làm. Bây giờ ảnh có số vốn đến 21 ngàn rưỡi có ức hiếp gì đâu mà oán. Anh để hết số bạc và sổ sách đó cho tôi. Sáng mai tôi lên trển tôi tính với Hương hào rồi tôi sẽ liệu. Hai ông bà lo lắng mệt nhọc mấy tháng trời mà không có lợi gì hết sao được.

Ông Thái giao hết tiền bạc sổ sách rồi ông về Bà Chiểu dặn bà Ngọc có bàn tính về sự chia lời vối Hương hào Điều thì phải nói cho khéo đặng khỏi mích lòng, bởi vì cuộc làm ăn còn phải mở lớn và phải bền vững lâu dài, không nên vì một vài chục ngàn mà thất nhơn tâm rồi mang tiếng tham lam không tốt.

Bà Ngọc cười mà nói: “Tôi nhờ anh hay nói cái lợi phải đi đôi với cái nghĩa mới bền, mới vui. Tôi không quên đâu. Xin anh đừng lo“.

Sáng bữa sau bà Ngọc rủ bà Hòa đi Bình Phước. Xe ghé vô tiệm. Ông Giáo Hiệp nói ông Thái mới đi ra Sài Gòn dọ giá gạch và xi-măng đặng lo xây cất lò đường lại. Hai bà đi luôn.

Xe lên tới sở, sốp phơ chạy luôn vô đậu trước lò đường. Vì hết mía nên lò nghỉ hổm nay, bởi vậy trong ngoài vắng hoe. Hai bà thấy ông Ba Lự với một người làm tháng đương lui cui cuốc đất lại góc vườn phía sau. Hai bà đi vô đó hỏi ông Ba cuốc đất chi vậy. Ông nói dọn chỗ đặng ương trà với hột của ông Thái mua rồi. Bữa nay ông bắt một người phụ với ông lo sở vườn vì trời bắt đầu mưa rồi. Còn hai người kia thì đi ra sở mía tiếp với đám nhơn công làm ngày dọn đất mà đặt mía.

Bà Ngọc dắt bà Hòa đi lại nhà thăm Hương hào Điều. Vợ chồng Hương hào vui vẻ tiếp rước mời ngồi.

Bà Ngọc liền nói: “Đường bán xong rồi. Tiền bạc họ chồng đủ. Tôi lên đặng trả số bạc năm ngàn của anh Hương hào xuất hôm đầu mùa mà mua tro với mướn nhơn công trồng. Tôi cũng tính sổ mà chia số lời với anh cho rồi. Theo sổ của ông Hai mà trình cho tôi đây thì mùa rồi trừ sở tổn ra còn lời được 49 ngàn “.

Hương hào nói: “Thưa phải. Ông Hai có tính sổ với tôi lời được 49 ngàn“.

Bà Ngọc nói tiếp: “Hồi trước ông Phủ có hứa với anh, nếu anh làm có lời thì anh hưởng phân nữa. Năm ngoái lời ít. Tôi đã chia cho anh y như lời hứa. Năm nay nhờ có ông Hai giúp sức đủ mọi bề nên lời tới 49 ngàn. Nếu chia hai thì phần anh được 24 ngàn rưỡi phải hôn? “.

Hương hào nói: “Phải. Mà mùa nầy có ông Hai hiệp tác, ổng thông thạo, ổng giỏi quá, ổng lo lắng từ hôm Tết tới giờ, phải chia lợi cho ổng một phần, chớ chia hai sao được“.

Bà Ngọc liếc mắt ngó bà Hòa rồi nói tiếp: “Tôi cũng có nghĩ như anh vậy, nên chiều qua ổng tính sổ với tôi thì tôi định chia làm ba, ổng hưởng một phần là 16 ngàn ba. Ổng dụ dự không chịu lãnh, ổng nói mùa nầy ổng giúp cho mình mà thôi. Nghĩ vì ổng lo lắng cực nhọc đến mấy tháng, lại bà Hai đây thạo cách bán đường nên năm nay bán được giá cao mới có lời nhiều, bởi vậy tôi lên hỏi anh coi anh có vui lòng chia lời cho ông Hai bà Hai một phần hay không?“.

Hương hào nói: “Tôi vui lòng lắm. Phải chia cho ông Hai một phần mới công bình“.

Bà Ngọc nói: “Trước mặt bà Hai ngó thấy đó. Tôi với anh Hương hào đều sẵn lòng chia lời cho ông Hai một phần, bà về nói với ông không nên từ chối. Sẵn đây tôi chia liền cho rồi. Phần anh Hương hào 16 ngàn ba, với năm ngàn của ảnh xuất trước, cộng là 21 ngàn ba. Tôi đưa luôn 22 ngàn cho chẵn số. Còn phần của ông Hai tôi đưa hẳn 16 ngàn cho chẵn luôn nữa“.

Bà Ngọc mở bóp đếm giao cho Hương hào Điều 22 ghim giấy săng mà biểu đếm lại. Vợ chồng Hương hào hớn hở tươi cười, bà vợ ngồi đếm, ông chồng đứng ngó. Ra công có vài năm, lại không cực khổ chi lắm, mà được số bạc tới 22 ngàn, còn mong muốn sao nữa mà chưa vui?

Bà Ngọc đếm luôn 16 ngàn nữa mà giao cho bà Hòa, cậy đem trao cho ông Thái và nói anh Hương hào ép ông phải hưởng một phần lời không được từ chối.

Bà Ngọc hỏi Hương hào vậy chớ mùa nầy anh tính giúp cho bà được nữa hay không?

Hương hào nói: “Mấy tháng nay tôi hay ông Hai lãnh thay mặt mà làm cho cô thiệt tôi mừng hết sức. Năm đó ông với cô kêu tôi mà giao cho tôi sắp đặt cuộc làm ăn lại. Vì tình bà con tôi không dám từ. Nhưng bắt tay vào việc đó tôi thấy tôi lù mù, lại không có thế lực nên khó mà làm lớn cho có lợi như chú Cả hồi trước được. Nay may có ông Hai chịu tiếp sức với cô, ổng tính dùng phân hóa học theo phương pháp mới mà trồng mía cho nhiều và cho tốt. Ông lại tính xây lò đường lại cho hẳn hòi, đặng sau mua máy và ép đường cát. Mấy việc đó tôi có hiểu đâu. Vậy tôi xin cô giao cho ông Hai làm, ổng thông thạo, lại có thế lực, ổng làm mới sanh lợi nhiều mà gậy dựng công nghiệp của chú Cả lại được. Tôi xin cô có thương tôi thì để cho tôi mướn 10 mẫu đất hoài đặng mỗi năm tôi trồng mía kiếm cơm đủ nuôi sống gia đình thì tôi cám ơn cô lắm. Tôi nhờ cô nên bây giờ tôi đã có vốn tới vài chục ngàn rồi. Tôi trồng mía, có rảnh thì tôi lo lập sở vườn của tôi lại, cây trái cũng rụi hết như đằng cô vậy. Mấy tháng nay tôi thấy cô sửa đặng trồng cây lại tôi nôn quá. Bây giờ rảnh rồi lại có tiền tôi sẽ mua cây mà trồng lần “.

Bà Ngọc nói:

- Ông Hai có cho tôi hay ý anh muốn nghỉ mà lo việc nhà. Tôi muốn hỏi anh thiệt như vậy hay là có việc chi anh phiền nên anh không chịu hiệp tác với tôi nữa.

- Tôi mang ơn cô lắm chớ có phiền việc chi đâu.

- Ông Hai cũng có nói ổng chừa cho anh 10 mẫu đất rồi.

- Thưa, phải. Hôm chia đất mà cho mướn ổng có chừa trước mười mẫu cho tôi, theo lời tôi xin.

- Tuy mùa nầy anh làm việc riêng, song tôi xin anh cũng ngó dùm công việc của tôi nữa nghe hôn.

- Vậy chớ sao. Có tình bà con lẽ nào tôi làm lơ. Trồng mía nếu ông Hai có thiếu công làm thì tôi kêu dùm cho. Chừng ép đường tôi ở gần tôi cũng phụ với. Mà tánh ông Hai hòa nhã biết xét công, biết thương người nên ở đây ai cũng kỉnh mến sẵn lòng giúp công cho ông hết. Cô giao cho ông Hai coi sở cô khỏi lo.

- Tôi nghe anh nói như vậy tôi cũng mừng. Thôi để tôi trở lại vườn coi ông Ba ương trà rồi tôi về.

Hai bà từ giã vợ chồng Hương hào mà đi. Ra ngoài đường rồi bà Hòa nói: ”Anh Hương hào thiệt thà dễ chịu quá. Vậy mà hồi mới gặp cha sắp nhỏ sợ thù oán rồi ảnh sanh chuyện“.

Bà Ngọc nói: “Tôi nghi ảnh gian lận mới bậy dữ chớ. Tôi phải vái Trời Phật xá tội cho tôi. Chia lời ảnh chịu chia ba, chớ tôi không có ép. Chị làm chứng về nói rõ cho ảnh nghe đặng ảnh hết ái ngại nữa“.

Lại tới chỗ ông Ba Lự làm; bà Ngọc mở bóp lấy đưa cho ông Ba 500 đồng mà nói mùa đường làm rồi nên bà thưởng riêng cho ông một số tiền để mua vải may áo quần mà bận. Bà lại lấy ra 600 đồng nữa, kêu anh làm phụ mà cho ảnh 200 đồng còn 400 đồng gởi ông Ba chia lại cho hai người mắc đi dọn đất trồng mía. Bà nói rõ rằng số tiền bà trao đây là tiền bà cho thêm đặng may quần áo mà bận, không kể trong số tiền công thường.

Hai người cám ơn bà hết sức. Bà nói anh em hết lòng giúp bà thì bà không bao giờ quên công ơn. Bà dặn ông Ba Lự mùa mưa nầy ráng trồng cây cho xong đặng qua mùa sau trồng trà trồng tiêu. Bà dặn dò an ủi rồi cùng bà Hòa lên xe mà về.

Tới Bà Chiểu hai bà ghé tiệm. Ông Giáo Hiệp nói hồi sớm mơi hai bà đi một lát ông chủ có về. Ông hay hai bà lên Bình Phước, rồi ông lên xe đi nữa, nói lên bứng coi cây ông đặt đã có được bao nhiêu đặng ông chở lần đem về Bình Phước mà trồng.

Bà Hòa cậy ông Giáo nói lại với ông Thái chiều tối có rảnh chạy về ngoài nhà một chút, rồi hai bà ra xe về Sài Gòn.

Công cuộc làm ăn trên Bình Phước đã sắp đặt mà xây nền tảng xong rồi. Bây giờ chỉ do theo chương trình lần lượt đi tới, hết lo gì nữa.

Bà Ngọc thấy rõ tài nghệ, biết rõ tánh tình của ông Thái rồi, bà không lo ngại chi hết. Lại nhờ ông giúp có mấy tháng mà mùa rồi bà không quên làm nghĩa, nhưng bà cũng còn thâu lợi hơn hai muôn; bà phấn chí bà đốc ông làm tới, đừng sợ tốn hao, phải xuất tiền bao nhiêu bà cũng dám xuất, xuất trước lợi sau, xuất một năm mà có lời nhiều năm, có sao đâu mà sợ.

Còn ông Thái làm nghĩa thử chơi ít tháng mà ông có lợi cũng bằng đóng bàn ghế mà bán cả năm; ông đắc chí nên ông càng thêm sốt sắng. Ngày nào ông cũng lên sở. Đương trồng mía ngoài ruộng, lại coi trồng cây trong vườn, nhơn công làm rần rộ tối ngày, bởi vậy nhiều bữa trưa ông về tiệm ăn cơm và nghỉ một lát rồi xế ông phải trở lên nữa.

Nhờ có ông Giáo Hiệp tận tâm giúp đỡ nên tiệm Thái Hòa cũng vẫn tấn phát như thường. Buổi chiều bà Hòa thường vô thăm chừng tiệm. Đôi ba bữa bà đi với bà Ngọc lên Bình Phước.

Trong vài tháng mía trồng giáp hết 70 mẫu đất. Còn vườn thì mỗi liếp đã trồng một hàng sầu riêng chính giữa. Một khoảnh đất kế bên mộ thì đã gây một vườn tiêu 30 nọc. Theo rãnh đất phía sau và hai bên thì trồng mít tố nữ xen kẻ với xoài voi, còn phía trước dọc theo lộ thì một bên trồng chôm chôm ngọt, một bên trồng dâu miền dưới.

Trồng trọt gần xong thì thầu khoáng đã chở đồ lên xây dựng lò đường mới. Cất một dãy nhà 5 căn lợp ngói móc, nền dộng chắc đặng ngày sau có thể đặt máy chạy được, cột dọc theo ranh đất phía tay mặt ngó qua vườn. Hai căn đầu ngoài cao ráo, có vách tường, có cửa, và dưới lót gạch một căn sắm bàn ghế, tủ, ván để tiếp khách và lúc có công việc làm tối ngày chủ sở ở lâu thì có chỗ nghỉ ngơi, còn một căn kế đó là kho, hễ đường làm rồi thì vô khạp vô lu để mà bán. Ba căn tiếp theo nữa nền tráng xi măng. Ấy là chỗ ép mía và nấu đường, có xây lò kỹ lưỡng.

Dãy nhà nầy cất rồi liền triệt hạ lò đường cũ đem cất nối theo đó cũng 3 căn, song lợp thiết, một căn chứa phân và để xe bò, còn 2 căn thì để nhốt bò với trâu sẽ mua để kéo mía và ép đường, để khỏi mướn của ai nữa.

Rào có chừa hai cửa cho xe ra vô phân biệt, một cửa phía đàng nầy vô lò đường, còn vô vườn thì có cửa cũ đầu đàng kia.

Bà Ngọc giao cho ông Ba Lự về ở căn kho đường đặng giữ lò đường và săn sóc vườn, còn hai người kia thì coi đánh lá bón phân ngoài sở mía. Qua tháng 11 mua được một cặp trâu và một cặp bò, bà biểu ông Ba kiếm mướn thêm một tên trai 16 tuổi để coi trâu bò.

Công việc sắp đặt xong xuôi rồi hết, chỉ đợi mía đúng lứa thì đốn mà ép đường.

Nghe ai cũng khen mía của ông Hai nhờ có phân nhiều nên tốt hơn mía của người ta hết thảy lại hay đường lên giá, mỗi ký thêm hơn một đồng nữa, bà Ngọc hớn hở mới đưa tiền cho ông Ba Lự kiếm mua một con heo đặng làm thịt cho bà cúng Đất Đai rồi đãi bà con anh em trong xóm ăn uống với bà một bữa cho vui. Tới tiệc nầy nữa thì Hương hào Điều với những người giúp công và cả thảy trong xóm đàn ông cũng như đàn bà ai cũng tùng phục bà Ngọc với vợ chồng ông Thái sát đất, hễ có cậy họ việc chi thì họ sẵn lòng giúp liền.

Mùa nầy nhờ trồng tới 70 mẫu đất, nhờ sở mía trúng lại nhờ giá đường lên cao hơn mùa trước nên mãn mùa ông Thái trình sổ thâu chi cho bà Ngọc xem như vầy:

Tiền cho mướn - 6.000đ

Tiền ép đường cho người ngoài - 5.000đ

Tiền bán đường - 145.000đ

Cộng - 156.000đ

Còn bên sổ xuất:

Mướn công làm vườn và mua cây trồng - 21.000đ

Xây cất lò đường mới - 90.000đ

Cất chuồng trâu bò và để xe - 10.000đ

Mua xe và trâu bò - 15.000đ

Mua phân - 10.000đ

Mướn nhơn công trồng mía - 9.000đ

Sắm khí cụ theo lò đường - 5.000đ

Cộng - 160.000đ

Ông Thái đợi bà Ngọc xét kỹ rồi ông mới nói: ”Vậy thì mùa nầy mình chưa lấy vốn lại được còn lỗ 4 ngàn “.

Bà Ngọc chưng hửng bà hỏi:

- Sao mà lỗ?

- Xuất tới 160 ngàn mà thâu có 156 ngàn thì lỗ chớ mà sao.

- Anh kể hết các số xuất vào cuộc hùn làm đường vậy sao phải. Sửa vườn là việc riêng của tôi. Cất lò đường lại, cất chuồng và sắm trâu bò đều là vật dụng lâu dài, không nên kể về tốn hao mùa nầy, xuất mùa nầy thì kể mua phân, mướn trồng mía và dụng cụ chút đỉnh cộng có 24 ngàn mà thôi. Còn bên thâu tiền cho mướn đất về phần riêng của tôi là phải. Anh muốn để tiền ép đường cho tôi nữa có lẽ cũng được vì tôi ra vốn cất lò thì lợi kể về tôi. Vậy thì số thâu về cuộc hùn hiệp phải kể 145 ngàn trừ 24 ngàn sở phí, còn lời 121 ngàn. Tính như vậy mới đúng số lời thiệt về mùa nầy. Chia hai lời thì phần anh hưởng 60 ngàn. Xin lấy 60 ngàn đi, để lại cho tôi 96 ngàn. Phải tính như vậy mới công bình.

- Không được, không được. Tôi tính làm, đặng giúp cô mà trả nghĩa chớ không có ý kiếm lợi. Cô ra vốn nhiều quá mới có lợi đó. Vậy nên để cho lấy vốn lại cho đủ, rồi sẽ nói chuyện chia lời.

- Anh chị nhọc công với tôi cả năm, lại bỏ phế cuộc buôn bán nên thất lợi về bên đó, đã nhọc công trồng mía làm đường, mà còn nhọc công gây dựng vườn tược lại cho tôi nữa. Tôi không thể để cho anh chị thí công giúp cho tôi có lợi, còn anh chị bị hại.

- Tôi có bị hại gì đâu?

- Anh phải cậy ông Giáo coi tiệm cho anh. Anh phải thêm lương cho ổng. Mà người thay mặt làm sao buôn bán bằng chủ tiệm được. Vậy không phải hại cho anh sao? Bữa nay tôi lên tỏ thiệt cho anh chị biết lòng dạ của tôi. Trót 20 năm thân tôi như người chết chưa chôn. Nhờ anh chị cứu tôi sống lại, hết buồn rầu, hết đau ốm. Tôi vui vẻ mà hoạt động lại như mọi người, biết ham sống mà vui với con, vui với đời. Tôi mang ơn của anh chị lớn quá, đã cảm ơn cũ chưa trả được, té ra lại còn mang ơn mới nữa. Tôi xin tỏ thiệt, tôi có đủ tiền bạc để mà nuôi cho con tôi, dầu một hay hai đứa cũng vậy, đủ sống sung sướng mãn đời, chẳng cần phải làm cho ra tiền thêm nữa. Năm ngoái, tôi xin anh chị hùn với tôi mà xây dựng cuộc làm ăn lại, tôi dư biết cuộc làm ăn đó sẽ có lợi lớn. Cha tôi nhờ đó mà làm giàu bạc triệu sao tôi lại không biết. Tại tôi chán đời nên cha tôi mất rồi thì tôi không thèm ngó tới, ai làm sao thì làm. Sau nầy tôi đã được vui sống rồi. Tôi đã còn sẵn tiền bạc nhiều, tôi không cần cào cấu kiếm thêm nữa. Sở dĩ tôi rủ anh chị hùn với tôi đặng trồng mía lập lò đường lại tôi ra vốn cho anh làm, chủ tâm của tôi là muốn làm cho anh chị có lợi, tôi biết làm được sẽ có lợi to, làm cho anh chị giàu đặng tôi đền đáp ơn nghĩa cứu tôi sống lại đó. Chừng bắt tay vào việc tôi lại dòm thấy muốn trả ơn cho anh mà tôi cũng được hưởng lợi lớn, nhứt là lợi về luân lý về tinh thần. Nhờ có anh chị giúp đỡ nên tôi xây dựng công nghiệp của cha tôi hồi trước lại được nữa. Lập vườn tược lại trồng mía làm đường lại như cũ. Tôi chắc vong linh của cha tôi dưới cửu tuyền rất vui mà thấy tôi kế nghiệp cho cha chớ không phải đứa con bất hiếu. Ơn nuôi dạy kẻ sau, tôi chưa đền đáp được, mà tôi còn mang thêm ơn trả thảo cho người, ơn nghĩa nặng nề quá nếu anh không chịu chia lời tôi ái ngại trong lòng hoài, làm sao mà vui sống cho được. Vậy tôi yêu cầu anh phải lấy phần lời của anh. Anh phải lãnh tôi mới yên lòng mà làm tiếp nữa.

Ông Thái ngó vợ, không biết liệu lẽ nào cho phải.

Bà Hòa nói: ”Cô Hai thiệt tình, cô đã nói cạn lời. Vậy nhiều ít gì cha nó cũng phải lấy cho cổ yên bụng”.

Ông Thái ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi ông nói: ”Cô Hai mang ơn vợ chồng tôi, mà vợ chồng tôi cũng mang ơn cô Hai vậy chớ, làm sao vợ chồng tôi quên được. Nhờ có 5 ngàn đồng bạc đó mới có tiền cho vợ tôi uống thuốc lành mạnh mà nuôi con và có vốn làm ăn, lần lần phát đạt, mua được nhà cửa và cho con ăn học. Nay tôi giúp cô Hai là có ý muốn đền ơn xưa đó chớ không phải muốn kiếm lời thêm. Cô Hai nài quá, nếu tôi không chịu chia lời sợ cô không yên lòng, cô mất vui rồi sanh bịnh lại. Vậy tôi phải lãnh, lãnh rồi để dành cho con. Nhưng tôi lãnh một phần ba mà thôi. Cô Hai ra vốn nhiều quá phải để một phần lời cho số vốn đó, cô một phần, tôi một phần, chia như vậy mới công bình, tôi mới dám lãnh”.

Bà Ngọc mừng nên bà cười mà nói:

- Anh muốn như vậy cũng được. Vậy anh lấy phần lời của anh 40 ngàn đi. Mà anh tính để một phần lời cho số vốn của tôi xuất thì chừng nào tôi lấy vốn lại đủ hết rồi hễ tôi có lời thì chia hai nghe hôn?”.

- Cái đó sau rồi sẽ tính. Vái Trời Phật cho bà con mình mạnh khỏe, sắp nhỏ thành danh rỡ ràng và cuộc làm ăn cứ xuôi thuận ấy là quí hơn hết.

Bà Ngọc đếm 40 ngàn rồi đưa cho bà Hòa với sổ sách. Ai nấy đều biết xử phải không ham tiền nên cả thảy đều vui mừng mà hăng hái làm tới.

Mùa nầy có người mướn mười mẫu đất vì già lại bịnh không trồng mía được nữa, nên xin giao đất lại cho nguyên chủ. Ông Thái lãnh mà trồng luôn, thành ra được 80 mẫu. Ông mua tro sẵn lại mua ít bao phân hóa học đặng trồng thử một đám mía mà thí nghiệm coi có hiệu quả và ít tốn hao hơn phân tro hay không.

Trời mưa dào dạt các đám mía đều lên mạnh tốt, trà ương đã giáp năm rồi. Ông Thái chỉ cho ông Ba Lự với mấy người làm vườn trồng giúp các liếp, mỗi liếp hai hàng. Những cây trồng năm trước có cây nào chết thì mua cây khác mà trồng thế, nên vườn đã trồng đều đủ hết.

Bà Ngọc với bà Hòa mới lên thăm vườn có một căn nhà sạch sẽ, bàn ghế tủ ván dọn coi thiệt đẹp, nên hai bà thường ở chơi, ông Ba Lự khoe trong 2 năm nữa vườn sẽ có huê lợi trà với tiêu rồi lần lần mới tới các trái cây đủ thứ.

Bà Ngọc lấy làm đắc chí, nên buổi chiều viết thơ thăm con, bà mới nói thiệt cho con hay từ năm ngoái nhờ có vợ chồng ông Thái hùn hiệp với bà, nên ông coi lập sở vườn, mướn trồng mía và xây dựng lại lò đường trên Bình Phước, cuộc nào cũng xong xuôi rồi hết. Mùa rồi số thâu tới 156 ngàn, ngặt bị cất lò đường, mua trâu bò và sửa sang lại vườn tốn hao nhiều, số xuất tới 160 ngàn nên chưa có lời. Mùa nầy mía trồng rồi tới 80 mẫu, cây trong vườn lên sởn sơ, chỉ tốn tiền mua phân và trả tiền công làm mà thôi, khỏi xuất nhiều nữa, nên cuối mùa chắc sẽ có lời cả trăm ngàn.

Cậu Khánh trước kia nhờ Đào với Lý cho hay mỗi ngày vợ chồng ông Thái cho một cô qua ăn cơm và ở ngủ cho mẹ cậu vui mà hết bịnh thì cậu cảm tình hết sức. Nay hay ông Thái giúp lập vườn và gây cuộc làm ăn lại giúp cho mẹ cậu thì cậu càng thêm mừng. Cậu liền viết thơ ngay cho ông Thái và cảm ơn ông. Cậu gởi thơ cho Đào với Lý mà nói cậu có hy vọng sẽ về được.

Còn gởi thơ cho mẹ thì cậu mừng mẹ nhờ vợ chồng ông Thái mà mẹ được vui hết bịnh, lại lập vườn, trồng mía, làm vườn đặng chừng cậu về chúa nhựt cậu lên đó ở chơi cho khỏe trí.

Bà Ngọc đem thơ của con cho vợ chồng ông Thái xem và tỏ ý muốn cất biệt thự trên vườn. Ông Thái cản. Ông nói đã có dọn một căn nhà đàng hoàng rồi. Lúc làm việc mình phải ở tối ngày trên sở, thì đã có sẵn chỗ cho mình nghỉ tạm. Cất biệt thự thì phải sắm đồ coi cho được, phải chiết vốn ít lắm là 200 ngàn. Mà cất nhà không ai ở đồ đạc hư hao, lại phải mướn người ở mà giữ. Vậy nên đợi cậu Khánh về như thiệt phải cất nhà, thì hỏi ý cậu muốn cất theo kiểu nào, bà sẽ mướn vẽ họa đồ rồi mướn thầu khoán cất cho cậu. Bây giờ thầu khoán giỏi, lại nguyên liệu tuy mắc song có sẵn dồi dào dễ thương thuyết, chịu giá xong thì trong một tháng người ta cất rồi cái nhà, chớ không phải chậm chạp làm cả năm như hồi trước.

Bà Hòa với Đào, Lý đồng xin huởn việc cất nhà mát. Bà Ngọc phải theo ý phần đông mà trả lời với con.