Giáo tử phú

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Giáo tử phú
của Mạc Đĩnh Chi

Giáo tử phú nghĩa là phú dạy con. Bài phú được viết bằng chữ Nôm.

Nhất thiết thăng trầm,
Mệnh sinh ngũ dục;
Nghiệp nặng nhiều ngày,
Sinh loài ngũ trọc.
Vì lòng vì dạ,
Thương cái thương con;
Chịu khó đêm ngày,
Cưu mang đùm bọc.
Hôm mai lặn mọc,
Đã Bắc thì Nam;
Làm cửa làm nhà,
Tranh hơn tranh thiệt.
Năm năm cày cục,
Tham sắc tham tài;
Xóc xóc lòng lo,
Chơi bời tửu sắc.
Tiếng đồn lừng lẫy,
Tham những vinh hoa;
Anh ả nuôi tôi,
Khoe ăn khoe mặc.
Tranh nhân tranh ngã,
Khôn khéo hơn người;
Đường phúc đường nhân,
Chưa làm một chút.
Danh cao chưng thế,
Chưa được bao chầy;
Một phút mình nay,
Vô thường thôi thúc.
Bắc Nam mồ quạnh,
Eo éo cỏ xanh;
Hoàng nhưỡng thâu đêm,
Người kêu người khóc.

Diêm vương đôi hỏi,
Lành dữ cho hay;
Hắc ám mịt mùng,
Người ta lúc nhúc.
Đứa thì cưa xẻ,
Phân mình làm hai;
Đứa thì trói lưng,
Thương thay vỉ khóc.
Nước đồng bắt uống,
Một ngày trăm phen;
Cháy nát tan tành,
Lòng thương bức tức.
Đao sơn vạn nhẫn,
Ngục tốt vây quanh;
Kiếm thu thiên trùng,
Ngưu đầu xuyên xóc.
Hỏa lò rỡ rỡ,
Lửa cháy hào quang;
Nấu nướng người ta,
Tan xương nát óc.
Hàn băng hắt hắt,
Giá lạnh căm căm;
Gieo xuống một khi,
Hồn xiêu phách lạc.
Chó đồng miệng sủa,
Ra những hỏa yên;
Chạy rảo đòi phen,
Tội nhân xác lác.
Thiết lư thiết mã,
Thiết thú thiết ưng;
Mổ cắn người ta,
Xương bày ngan ngác.
Hoàng tuyền khi ấy,
Tiếng khóc rinh rinh;
Chốn vỉ chốn kêu,
Thâu đêm nhao nhác.
Mình vàng vóc ngọc,
Đã chết lại sinh;
Ngục tối đứng bày,
Đã đầy ngạt ngạt.
Nghiệp phong thổi đến,
Xẩy lại nên người;
Lúc lắc một khi,
Lạ xuyên lại xóc.
Muôn nghìn địa ngục.
Thây chết trùng trùng;
Đứa vả đứa kêu,
Người lo người khóc.
Dương gian ngỡ dễ,
Lấy chết làm chơi;
Ngục tốt tiếng hầm,
Tội nhân lơ lác.
Mình nằm địa ngục,
Vò võ đêm ngày;
Một mình khó thay,
Chịu thương chịu bức.
Chị em chẳng thấy,
Con cái hay sao;
Mình khó mình thương,
Ai coi ai sóc.
Thuở người chưng thế,
Chưa được bao chầy;
Đến chết bằng nay,
người thui người đốt.
Mệnh sang mệnh khó,
Tiếng khóc ngập ngừng;
Thán trách than rằng:
Chẳng hay làm phúc.
Bao nhiêu của tốt,
Con cái chia nhau;
Địa ngục tù lao,
một mình chịu chết.
Ruộng nương nhiều ít,
Đành để cho con;
Tư tiến trai đàn,
Minh dương thủy lục.
Tranh nhau hơn thiệt,
Kẻ ít kẻ nhiều;
Cả cỗ người ăn,
Hề chi đến bụt.
Lòng chăng có thảo,
Phô tiếng phô danh;
Tranh ngã tranh nhân,
Chẳng lành một chút.
Phô danh chép miệng,
Chẳng kẻo lỗi nào;
Địa ngục tù lao,
Cúi đầu chịu chết.
Danh cao chưng thế,
Đồn những sang giàu;
Gặp chốn âu sầu,
Ai vì quan chức.
Cho hay là vậy,
Thí ruộng thí nương;
Làm bụt làm chùa,
Tu nhân nhẫn nhục.
Rẻ đường làm phúc,
Tham những vinh hoa;
Chết xuống Diêm-la,
Mình sa địa ngục.
Đến bằng khi ấy,
Chỉn khá là thương,
Lạc phải điều hình,
Ruột phân chín khúc.
Ai đà đến đấy,
Mới biết nguồn cơn;
Vò võ đêm sầu,
Vo ve tiếng khóc.
Luân hồi muôn kiếp,
Chưa lại nên người;
Âm phủ dương gian,
Tử sinh thôi thúc.
Cha đà đến đấy,
Biết được lòng thương;
Bảo chúng con hay,
Ở thì làm phúc.
Lâm chung số hết,
Cho kẻo luân hồi;
Niệm bụt ăn chay,
Diêm vương mới phục.
Dầu phàm dầu thánh,
Miễn được an nhàn;
Trọng pháp kính thầy,
Thí bần tác phúc.
Cơm ăn phải bữa,
Ai đói thì cho;
Bớt miệng xui lòng,
Mỗi người một chút.
Kim cương thường đọc,
Bố thí làm duyên;
Nghiệp dữ thì chừa,
Lành thì tua cốc.
Phô người quân tử,
Mở miệng trái tai;
Hễ kẻ tiểu nhân,
Cưu lòng độc ác.
Ai ai tham lợi,
Phú quý nhiều bề;
Cắp một tay không,
Thấy đâu tiền bạc.
Chớ còn lo lắng,
Làm hại khốn dân;
Sá cốc tu thân,
Học đòi ông Mạc.
Kẻ vào tù rạc,
Những kẻ ngoan hung;
Người ở thiên cung,
những người hiền thảo.
Lòng thương dạy bảo,
Thu dữ về lành,
Học đạo tu hành,
Ăn chay thủ giới.
Thịnh suy bĩ thái,
Nào được bao lâu,
Nhiều rể nhiều dâu,
Nhiều oan gia nữa.
Nhiều con nhiều vợ,
Phiền não buộc ta;
Tán cả ngựa cao,
Ta xem bằng giặc.
Anh em nội ngoại,
Ân ái mẹ cha;
Để lễ xuất gia,
Báo ơn mới được.
Hễ đường bạo ngược,
Sát, đạo, tà dâm;
Tội nặng muôn năm,
Phải chừa phải bớt.
Đội ơn trời đất,
Cha mẹ sinh thành;
Cho gấp chớ chầy,
Tu hành làm bụt.