Giọt máu chung tình/Hồi thứ mười hai

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MƯỜI HAI

Định hôn-nhơn công-tử ép duyên em

Giử thệ ước, Tiểu-thơ bàn lợi hại

Thiều-quang thấm thoát, qua lẹ dường tên, vừa cúi ba xuân, kẽ đầu chín hạ. Bạch-tiểu-thơ bữa nọ đương ngồi trong thơ-phòng với Thế-nữ Xuân-Đào, người thì lo săn sóc đường kim mối chĩ, gọi chúc làm khuây, kẻ thì đọc truyện xem thi, đặng giải cơn phiền muộn.

Xảy đâu Bạch-công-Tử ngoài cữa bước vô, rồi lại ngồi nơi ghế. Và nói với Tiễu-thơ rằng; nầy em, anh có một việc cần kíp, đến tỏ cho em hay, mấy tháng nay có một người con ông Thiên-hộ ở Hà-Đông tên là Vương-Bích, đã nhiều phen cậy người đến nói với anh về việc lương duyên của em, nhưng anh thấy Xuân-đường mới khoản, em còn chác não đeo sầu, nên anh đình đãi bấy lâu, chưa tỏ ra cho em biết, nay thấy em đã bớt lòng sầu muộn, nên anh đến đây, trước là vưng theo lời di ngôn của nghiêm-đường dạy bảo, sau là định cuộc nhơn duyên của em cho hoàn thành; như vậy mới là yên lòng cha nơi chốn tuyền đài, và phận em cũng đặng xong bề gia thất. »

Tiễu-thơ nghe nói thì sững sốt một hồi, rồi day lại trả lời một cách khoan thai tề chĩnh rằng: « Thưa anh, việc xuân-đường mới khoãn, lòng em sầu nảo chưa ngui, lý đâu trong lúc thũ hiếu cư tang, mà lại tính cuộc hôn nhơn giá thú, như vậy em e chẳng những phận làm con lổi đạo với mẹ cha, mà lại miệng nhơn thế sanh nhiều lời dị nghị lắm chăng? »

Nói chưa dức, kế vợ Công-tữ là Trần-thị, ngoài cữa hớn hở bước vô; mắt ngó Tiễu-thơ và cười và nói:

Cô nương, tôi rất mừng cho cô nó nay gặp cuộc nhơn duyên may mắng đã đặng nơi gởi phận các đằng, tôi nhắm sơ qua, thì duyên đã bén duyên, còn xem kỷ lại, thì lứa cũng nên xứng lứa, ai thì tôi không dám chắc, chớ như Vương-Bích nầy, thật là một người đại thương cự phú, mà lại đàng tay hào hiệp phong lưu, việc gia tài thì bạc chứa đầy rương, còn bề ruộng đất thì cò bay thắng kiến. Cô nó nghĩ đó mà coi, ấy cũng là phước nhà hân hạnh, nên khiến cho cô nó gặp chổ giàu sang, vậy mới phải trang gái sắc chứa nhà vàng, và chẳng hổ phận lầu son treo giá ngọc, nếu chẳng phải bực hào gia vọng tộc, thì vợ chồng tôi dám đâu ép liễu nài hoa. Song tôi nghỉ việc ấy cũng việc nhà, nên phải cạng lời hơn lẻ thiệt cho cô nó rỏ. »

Tiễu-thơ nói: « Thưa anh chị, anh chị đã đem lòng thương tưởng, thì em biết bao muôn đội ơn lòng, nhưng mà việc hôn nhơn là một việc rất trọng hệ trong đạo cang thường, xin đình đãi mà lóng đục dò trong, lẻ đâu dám khinh sức mà hứa đùa ừ vội cho đặng. Nếu không dè dặc, thì tôi e lương duyên sẻ trở ra ác duyên, bằng chẳng kén lừa, thì giai ngẩu sẻ thành ra thất ngẩu.

Vả lại những sự tiền tài giàu có ấy, nếu chẳng phải ở nơi giọt nước mồ hôi mình làm ra, và chẳng phải ở nơi khối trí nảo lo lắng cực nhọc mà có đặng, thì tiền bạc ấy là một vật hoạnh tài, và là một sự giàu có bề ngoài đó thôi, nay nó ở người nầy, mai nó sang tay ngurời khác. Nếu mình chẳng có trí nảo đũ mà kềm chế giử gìn, thì kẻ khác sẻ dùng mưu kia chước nọ mà dực dành soan đoạt. Chí như sự trí nảo trong óc người, là một hòn núi kim-sơn, là một nguồn sông Lệ thủy, vàng bạc châu báu đều bởi đó mà sanh ra, phú quí vinh hoa, cũng bởi đó mà thành tựu.

Vì vậy nên em chuộng sự giàu có bề trong trí nảo, hơn là sự giàu có bề ngoài tiền tài; chuộng những người có tư tưởng linh hồn, có tinh thần học thức, biết phò nguy tế nhược, trị quốc tề gia, lúc ở nhà thì biết hiếu sự mẹ cha, giữ gìn giềng mối, khi ra ngoài thì biết thi ân tựu nghĩa, mà đối đãi đồng nhơn, biết lo chấn chỉnh gia cang, biết tính kinh dinh quyền lợi, em chuộng là chuộng những kẻ đởm đương nghĩa vụ, biết thương yêu chũng tộc đồng bào, biết giữ cái chí khí trượng phu mà đễ phương danh cùng vỏ trụ.

Chí như những kẻ núp theo mái gia tài sự nghiệp của tổ phụ lưu truyền, đặng mà lãng phí chơi bời, đem tên tuỗi thân danh mà vùi lấp vào trận mê hồn cũa huê tường tữu địa, mà làm mặt cao sang, xưng mình rằng giàu có, song xét lại thì trong óc không chúc học thức, trong ruột chẳng chút tài năng, coi cái sự nghiệp của tổ phụ sáng tạo như trò chơi, xem xứ sở quê hương như tuồng tha ban dị vức. Xứ nào rủi mà sanh sãng những bực ấy nhiều, thì chẳng bao lâu thành ra một phái du đãng, đễ mà khuấy nước hại dân, và là một giống sâu mọt cũa bạc tiền, để làm cho táng gia bại sãng; để mà làm cho bại hoại cái hậu vận cũa nước nhà, và cuộc tiền đồ cũa giòng giống.

Vì vậy nên em đễ mà lừa lọc những người có đức hạnh nhơn tình, chớ chẳng chuộng những kẻ tiền nhiều mà óc trống, dầu em chẳng gặp đặng người đồng tâm hiệp ý, thì thà em liều quá một đời xuân xanh nầy, cũng chẳng ăn năng phiền trách chi hết. »

Công-tữ nghe Tiễu-thơ phân tỏ mấy lời, thì mặt xàu mày nhiếu, mà tự nghĩ rằng: « Nếu con nầy mình không lấy oai mà ép buộc, thì việc hôn nhơn ắt chẳng đặng thành. Vả lại mình đã cùng Vương-Bích hứa hôn lở rồi, nếu đễ thất ngôn thì mang đều hổ thẹn. Nghĩ vậy rồi day lại lấy giọng nghiêm nghị mà nói rằng: sự nầy em cũng rõ biết rằng anh vưng lời cha di ngôn trong cơn bịnh ngặc, nên phải tính cho em thành cuộc nhơn duyên, và lấy theo lẻ huynh thế phụ quyền, thì chẳng những anh gánh vát việc gia đình mà thôi, mà anh cũng đặng cầm quyền khuyên răn trừng trị nữa.

Vã lại nay anh đã hứa gã em cho Vương-Bích rồi, và đã định ngày giá thú nội tháng nầy, thì phãi cho sính lể nghinh hôn. Nếu em chối từ dụ dự, chẳng chịu thuận lời, thì anh thề quyết chẳng nhìn một đứa ngỗ nghịch như em, là người đồng bào cốt nhục. »

Tiểu-thơ liếc thấy anh mặt đã có hơi hừng hừng sắc giận, thì ngồi lẵn lặn làm thinh. Vợ Công-tữ là Trần-thị thấy vậy, day lại nói với Tiễu-thơ rằng: « Cô nó phãi suy đi xét lại, mà ưng thuận cho rồi, chẳng nên để cho đường-đệ bất hòa, mà sanh đều gia đình lộn xộn.

Tiễu-thơ thấy anh chị đều quyết tình ép uổng, thì biết rằng khó nỗi nghịch lời, bèn day lại mà nói rằng: « Em dám đâu nghịch ý, xin anh chị yên lòng, miễng cho gia đạo thuận hòa, dầu anh khiến sao thì em cũng nghe vậy.

Vợ chồng Công-tử thấy Tiễu-thơ bằng lòng thuận ý, thì chẳng xiết vui mừng. Đó rồi dắc nhau hớn hở trở về, và thông tin cho Vương-Bích hay, đặng sắm sữa lo bề cưới gã.

Nguyên tên Vương-Bích nầy là người hưởng thừa phụ-ấm, và cũng một tay lảng hạnh phong tình, ngày lân la tữu điếm trà đình, tối ngã ngớn hoa hồn nguyệt phách. Khi thấy Tiễu-thơ là một gái giai nhơn tuyệt sắc, thì biết bao tình luyến ngọc mê hương. Vì vậy nên cậy mai nhơn đem lễ vật bạc vàng, thi ân nghĩa đặng mua lòng Công-tữ. Thế tình thiên-hạ, hễ thấy bạc thì ham, bởi nơi bị một chữ tham, nên tục đời gọi kiến tài thì ám nhản. Còn Vương-Bích vẩn là tay hào ba phóng đãng, tánh từng quen nghiêng túi bốc rời, đã nhiều phen đổ một trận cười, dầu bạc trăm lượng cũng phí phà chẳng tiếc. Huống chi cuộc nhơn duyên giá thú, hể cậy thần tài cao lễ thì dễ thưa, miễng là gặp đặng người ý đẹp tình ưa, dầu hết kho sảng muôn ngàn cũng trúc.

Tội nghiệp thay cho Tiễu-thơ là một gái đào thơ liễu yếu, bị chìu lòn ràng buộc dưới quyền anh, dầu cho nợ nhơn duyên lòng thật chẳng đành; nhưng mà đều hơn thiệt khó buông lời nghịch luận. Vì vậy nên Tiểu-thơ phải dằn lòng hóp bụng, chỉ lo nhẩn khí hàm thinh, để mà xem con Tạo xây vần, liều nhắm mắt tới đâu hay đó.

Đoạn Vương-Bích đặng tin Công-tữ gởi sang, định ngày cho làm lễ cưới, thì phình gan nở ruột, nhảy nhót múa men, chẳng biết bao nhiêu hớn hở vui mừng, lòng mong mỏi cho ngày giờ mau tới. Đó rồi lo sắm sữa những đồ trang liêm lễ vật, lăn xăn dọn dẹp cữa nhà, nào là kim tòng xích tụi, trước sau xem rất hoa hòe. Nào là liễn gấm màng thêu, bốn phía phủ giăng đẹp đẻ, đèn treo ngũ phước, hàng thắc tứ linh, chỗ thì biễn ốc xoa cừ, chỗ thì chung đồ cỗ ngoạn, phòng buồng rực rở, đèn đuốc huy hoàng, vẻ viên đáng mặt giàu sang, ai thấy chẳng khen là một nhà đại gia lương đống.

Đến bữa cưới, nào là viên-quan quới-khách, Công-tữ Vương-tôn, nào là thân sỉ văn nho, thân bằng thiết hữu, ai ai cũng tới khánh hạ tân hôn, mà mừng cho Vương-Bích đặng kỳ ngộ lương duyên, vinh hài giai ngẫu.

Bên Bạch-công-tử cũng dọn dẹp nghi tiếc trang hoàng, xe kiệu chờ ngày tống giá.

Còn Tiễu-thơ và Thế-nữ Xuân-Đào sớm tối ở nơi tư phòng, lo thêu tiểu vá may, sữa sang đồ nữ trang quần áo.

Vợ chồng Công-tữ thấy Tiểu-thơ vui vẻ, thì phới phở lòng mừng.

Tối lại, Tiễu-thơ ăn mặc nghiêm trang, ra trước Từ-đường thấp nhan đèn và lạy cha mẹ rồi đứng bên giường thờ mà khóc và nói: Cha mẹ ôi! cha mẹ trong lúc sanh tiền biết bao lao tâm khổ nảo, lo mà soán tạo một sự nghiệp qui mê nầy, ngở là sắm một cuộc khoái lạc thanh nhàn, đặng đem cái ngày tháng dư dã sau đây, mà tịnh dưởng tinh thần trong lúc tuổi cao tác yếu, và chung vui sum hiệp cùng con cái một nhà. Nay con ra đến cái từ-đường này, mà bái biệt cha mẹ thì rất hiu quạnh yêm liềm, chỉ thấy lư-hương ngui ngúc, bài vị lờ mờ, với hai ngọn hồng đăng nhấp nhán, sáp chảy nhiễu xuống ròng ròng đấy mà thôi! dường như cha mẹ thấy con gần ra khỏi nhà, mà rưng rưng hai hàng giọt lệ đó vậy.

Cha mẹ ôi! Nhà nầy là nhà con rất thương yêu triếu mến, từ nhỏ đến giờ, mười chín năm dư, chẳng hề rời ra khỏi cửa. Nhà này là chỗ dấu tích nhao rún của con, nhờ đó mà ăn no mặc ấm, khôn lớn trưởng thành. Nhà nầy là một chỗ đoàn tụ cha mẹ anh em bấy lâu, mà làm một gia tộc rất yêu dấu thuận thoàn, rất vinh vang vui vẻ. Nhà nầy là chỗ cha mẹ cho con một khối máu thịt hình hài, ngày nay đặng tóc dài da thấm, mãnh mãnh ma ma, thành ra một vóc yểu điệu hồng nhan nầy, để ngày nay đặng làm con dâu cho nhà khác.

Cha mẹ ôi! Cái phận mõng mãnh đào thơ liểu yếu nầy, trong 12 bến nước, con chưa biết đâu là may rủi, biết đâu là đục trong. Con chỉ mong nhờ cái bến nước phước đức tiền nhơn, để làm một con đường tiền đồ hi vọng.

Nay ngày giờ đã tới, cực chẳng đã con phải phân rẻ chỗ xứ sở cha mẹ anh em, mà cất bước tùng phu, và đưa chơn theo đường rủi may của tay tạo hóa chỉ sữ. Vậy thì con vái van cầu khẫn cho vong hồn cha mẹ, sanh ký tữ qui, hiển hích anh linh mà chứng cho con ngày nay là ngày con bái biệt từ đường. Con chỉ lấy một sự thương yêu cha mẹ mà làm chỗ vọng tưởng trong tấm lòng con, đặng sớm tối phượng thờ, mà gọi rằng chúc hiếu tình của nhi nữ.

Tiểu-thơ than khóc một hồi rồi trở vô tư thất. Bổng nghe ngoài ngỏ rần rần xe ngựa, tới đậu trước dinh. Kế thấy Vương-Bích trên xe bước xuống, khăn áo trang hoàng, và vô bái yết từ đường rồi đem ra trăm lượng vàng ròng và đồ nử-trang rất nên trọng giá, để làm lễ cưới, hai bên thân tộc thảy đều quới khách viên quan, trà rượu cỗ bàn đều sẳng sàng nghi tiếc. Khi Vương-Bích bái hiện từ-đường rồi ra ngồi nơi ghế với Bạch-công-tữ. Trà nước vừa xong, hai họ liền từ giả trở ra. Mai nhơn lại nói với Công-tữ, xin rước Tiểu-thơ lên xe, đặng về cho kịp giờ động phòng hoa chúc.

Công-tữ liền biểu vợ là Trần-thị vô dắc Tiễu-thơ ra Trần-thị lật đật chạy vào tư phòng của Tiễu-thơ, thì thấy cữa buồng mở rộng, đèn thấp sáng lòa, coi lại thì vắng vẻ phòng không, chẳng thấy Tiểu-thơ và ai hết. Trần-thị vội vã chạy kiếm nơi các phòng kia và gạn hỏi gia-đinh cũng chẳng ai thấy cã.

Trần-thị chạy ra tiền-đường nói với công-tữ. Công-tữ thất kinh, bèn đốc suất gia đinh tứ phía tìm kiếm Tiễu-thơ, song chẳng ai kiếm đặng. Còn ngoài đường thiên-hạ, đứng đã chậc nức trước dinh, qua lại nhộn nhàn, kẻ đợi xem dâu, người chờ coi rễ.

Đoạn Vương-Bích và mai nhơn đương đứng chờ Tiễu-thơ trước dinh, hồi lâu chẳng thấy, thì lật đật chạy tuốc ra sau tư phòng, thấy Bạch-công-tữ đương đứng hơ hãi ngó mông, thì bước lại hỏi thâm duyên cớ.

Công-tử nói; Thật một sự quái gở, chẳng biết cớ sao Tiểu-thơ đâu mất, tìm kiếm chẳng ra, tôi đã hỏi tra mấy trẻ trong nhà, mà chẳng một ai rỏ đặng. »

Vương-Bích nghe nói sững sờ. Kế Công-tữ bước vô phòng thì thấy một phong thơ để nằm trên ghế, lật đật dở thơ ra xem. Trần-thị và Vương-Bích cũng vội vã bước lại xem thơ, thì thấy nói như vầy:

« Kính cùng nhơn-huynh đặng rỏ, từ khi xuân-đường tị thế, thì trong lòng em xây một thành sầu, chẳng biết bao nhiêu chất thãm chứa buồn, đau lòng xót dạ. Vì vậy em còn lòng nào mà vui cuộc nhơn duyên, động phòng huê chúc, vậy nay em chỉ còn biết một sự vui là đem cái thân sanh nầy mà quăng nơi vực thẫm sông sâu, là chỗ em tìm xuống tuyền đài đặng theo cha theo mẹ đó thôi. »

Một đứa em bạc mạng.
BẠCH-THU-HÀ tự ký.
 

Công-tữ xem thơ rồi sốt mặt sãng mày. Hai vợ chồng lấy mắt ngó nhau chưng hững, rồi đứng trơ trơ như nộm gỗ. Còn Vương-Bích nghe đọc rồi, thì hai gối như ríu ríu rụng xương, bũn rũn tay chơn, mặt mày tái xanh, rồi té xiễu nơi ghế mà bất tĩnh.