Hà thành chính khí ca

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Hà thành chính khí ca  (1882) 
của Ba Giai

Hà thành chính khí ca là một thi phẩm dài nhằm ca ngợi sự tuẫn tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu, đồng thời phê phán những viên quan phản bội (bỏ chạy hay đầu hàng) khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882).

Một vừng chính khí lưu hình,
Rộng trong trời đất: nhật, tinh, sơn, hà,
Hạo nhiên ở tại lòng ta,
Tấc vuông son sắt hiện ra khi cùng[1].
Nên thua theo vận truân phong,
Ngàn thu rạng tiếng anh hùng sử xanh.

Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quang Viễn[2], trung trinh ai bằng?
Lâm nguy, lý hiểm[3] đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn Hồ[4] dạ vẫn nhăm nhăm,
Ngoài tuy giao thiệp, trong căm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Rạng ngày mồng tám, mới qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm võ sĩ, vài nghìn tinh binh.
Tiên nghiêm[5] sai đóng trên thành,
Thệ sư[6] rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan võ tướng nghe lời,
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.
Ra uy xuống lệnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng súng ran[7].
Tiêm cừu[8] nổi giận xung quan[9],
Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.
Lửa phun súng phát bốn bề,
Khiến loài bạch quỉ hồn lìa phách xiêu
Bắn ra nó chết cũng nhiều
Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm.
Quan quân đắc chí bình tâm,
Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.

Chém cha cái lũ hôi tanh
Phen này quét sạch sành sanh mới là!
Không ngờ thất ý tại ta,
Rõ ràng thắng trận, thế mà thua cơ!
Nội công rắp tự bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngã theo
Quan quân sợ chết thảy đều,
Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên.
Nào ai sức mạnh gan liền?
Nào ai cầm vững cho bền ba quân?
Nào ai có chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,
Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Thương thay trong buổi gian nguy,
Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu[10] bao xa,
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sanh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước quan Võ hiển khâm sai[11],
Sau, quan Tổng đốc[12] một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...
Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chơn đi gập ghình.

Võ như đề đốc Lê Trinh[13],
Cùng là chính phó lãnh binh một đoàn,
Đương khi giao chiến ngang tàng,
Thấy quân hầu đổ vội vàng chạy ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Thế mà nghe nói mơ hồ
Rằng: quan đề đốc xuống hồ cửa tây;
Kẻ rằng: Treo ở cành cây
Người rằng: hẳn xuống giếng nầy không sai.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hiệp táng cùng nơi học đường.
Hỏi ra sau mới tỏ tường,
Cũng loài úy tử, cũng phường tham sanh.
Phép công nên bắt gia hình,
Rồi ra nặng chữ nhơn tình lại thôi.
Văn như Tuần phủ nực cười,
Bình Chi[14] là hiệu, năm mươi tuổi già.
Biết bao cơm áo nước nhà?
Nhắm trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Nỡ nào bỗng chốc quên liền ngay đi?
Lại còn lẩn khuất làm chi?
Hay là tham tiếc mùi gì ở đây?
Hay là còn chước bình Tây,
Chực làm nội ứng, đợi ngày viện binh?
Hay là tiếc gái xuân xanh?
Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân ?
Hay là còn chút từ thân,
Rắp toan tịch cốc[15] mấy lần lại thôi!
Sao không sợ tiếng với đời?
Sao không thẹn với người tử trung ?
Kìa Tôn Thất Bá niết công[16],
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Cũng nên hết sức kinh luân mới là...
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ sao bán rẻ một tòa Thăng Long?
Thề xưa liệu đã chẳng xong,
Lại còn mở mặt trong vòng lưỡng gian[17].
Tư giao rắp những mưu gian,
Thừa cơ xin chữ hội thương ra ngoài.
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.
Dâng công quyền nhận tỉnh thành,
Xui người đổ tiếng một mình quan trên.
Tội danh thiệt đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài[18].
Thung dung kể đến phiên đài[19],
Xỉ ban[20] cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chi để kẻ cười, người chê!
Nhĩ Hà, Tản lĩnh đi về,
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quả còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho khắp mà bàn,
Sau nầy sẽ có sử quan phẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh
Thừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.

Xa trông chót vót Bình phong[21],
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi khi cá nước duyên hài,
Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.
Nghiêu Thuấn quân, Nghiêu Thuấn dân,
Bát thiên thu, bát thiên xuân thái hòa!
Bây giờ ta gắn với ta,
Túy tinh khiển hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Ở đời văn võ công hầu,
Càng nghe câu chuyện càng sầu bên tai!
Diễn ca Chính khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn.

Dưới đây là một bản khác, in trong sách văn cấp 3 cũ:


Một vừng chính khí lưu hình,
Khoảng trong trời đất: nhật, tinh, sơn, hà,
Hạo nhiên ở tại người ta,
Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng.
Hơn thua trong vận truân phong,
Nghìn thu để tiếng anh hùng sử xanh.

Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng?
Lâm nguy, lý hiểm đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn Hồ dạ vốn nhăm nhăm,
Ngoài tuy giao tiếp, trong chăm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Sáng mai mồng tám, bước qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm vũ sĩ, vài nghìn tinh binh.
Tiên nghiêm lên đóng trên thành,
Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan vũ tướng nghe lời,
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.
Ra oai xuống lệnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.
Tiêm cừu nổi giận xung quan,
Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.
Lửa phun súng phát bốn bề,
Khiến loài bạch quỉ hồn lìa phách xiêu
Bắn ra nghe chết cũng nhiều
Phố phường nghe thấy, tiếng reo ầm ầm.
Quan quân đắc chí bình tâm,
Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.

Chém cha cái lũ hôi tanh
Phen này quét sạch sành sanh mới là!
Nào ngờ thất ý tại ta,
Rõ ràng thắng trạng, hóa mà thua cơ!
Nội công rắp những bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo
Quan quân sợ chết thảy đều,
Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên.
Nào ai cơm áo dốc đền?
Nào ai gìn giữ vững bền ba quân?
Nào ai còn chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,
Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi!
Thương thay gặp buổi truân nguy,
Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu bao xa,
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước quan Võ hiển khâm sai,
Sau quan Tổng đốc một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...
Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn lâm nguy,
Mặt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh.

Võ như đề đốc Lê Trinh,
Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,
Đang khi giao chiến ngang tàng,
Thấy cơ hầu đổ vội vàng nhót ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Lại còn nghe những mơ hồ
Rằng: quan đề đốc dưới hồ cửa tây;
Kẻ rằng: treo ở cành cây
Kẻ rằng: hẳn dưới giếng này chẳng chơi.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hợp táng ở nơi học đường.
Hỏi ra sau mới tỏ tường,
Cũng loài úy tử, cũng phường tham sinh.
Phép công nên bắt gia hình,
Rồi ra nặng chữ nhân tình lại thôi.
Văn như Tuần phủ nực cười,
Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già.
Biết bao cơm áo nước nhà?
Kể trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Thế mà bỗng chốc quên liền ngay đi?
Lại còn quanh quẩn làm chi?
Hay là thương tiếc vật gì ở đây?
Hay là có chước bình Tây,
Trước kia hoảng hốt sau này nghiên tinh?
Hay là tiếc cái xuân xanh?
Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân?
Hay là còn chút từ thân,
Đã toan tịch cốc mấy lần lại thôi!
Sao không biết xấu với đời?
Sao không biết thẹn với người tử trung?
Kìa Tôn Thất Bá niết công,
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Cũng nên hết sức kinh luân mới là...
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ nào bán rẻ một tòa Thăng Long?
Thề xưa liệu đã chẳng xong,
Mặt nào còn đứng trong vòng lưỡng gian.
Tư giao rắp những mưu gian,
Thừa cơ xin dự hội thương ra ngoài.
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.
Dâng công quyền lĩnh tỉnh thành,
Mà toan đổ tội một mình quan trên.
Tội danh thật đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài.
Lân la kể đến phiên đài,
Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chỉ để kẻ cười, người chê!
Nhị hà, Tản lĩnh đi về,
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quá còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho khắp mà bàn,
Sau này đã có sử quan thẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh
Thừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.

Xa trông tút vút Bình phong,
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi ra cá nước duyên hài,
Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.
Đã thánh quân lại hiền thần,
Có đâu mà chẳng quần dân thái hòa!
Bấy giờ ta lại với ta,
Tỉnh say dật hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Hà thành văn vũ công hầu,
Càng nghe thấy chuyện càng rầu bên tai!
Diễn ca Chính khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn.

   




Chú thích

  1. Mấy câu này dựa theo ý mở đầu bài "Chính khí ca" của Văn Thiên Tường.
  2. Tên hiệu của Hoàng Diệu.
  3. Từng trải sự nguy hiểm.
  4. Nuốt rợ Hồ (chỉ quân Pháp).
  5. Ra nghiêm lệnh trước.
  6. Cùng với quân sĩ thề sống chết đánh quân xâm lược.
  7. Có người đã chứng kiến trong khi giao chiến, nói rằng bấy giờ trong thành bắn ra, lính Pháp chẳng chết mấy; đấy là lời nói khoe đó thôi. Bấy giờ bốn ông quan tỉnh chia giữ bốn cửa, quan Tổng đốc giữ Cửa Bắc.
  8. Chỉ muốn giết kẻ thù.
  9. Giận, tóc dựng lên đội cả mũ mão.
  10. Năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873), Thiếu tá hải quân Francis Garnier đánh thành Hà Nội lần đầu.
  11. Chỉ Nguyễn Tri Phương, vị tướng đã uống thuốc độc chết sau khi để mất thành Hà Nội (lần thứ nhất).
  12. Chỉ Tổng đốc Hoàng Diệu.
  13. Đoạn này nói Đề đốc Lê Trinh không chết trong khi thành mất mà lại chạy trốn, theo phép phải có tội, song vì đút tiền nên được khỏi.
  14. Hoàng Hữu Xứng, tự Bình Chi, làm Tuần phủ Hà Nội bấy giờ. Ban đầu cũng thề còn mất với thành, nhưng nhịn ăn được vài bữa lại thôi và bằng lòng hợp tác với thực dân.
  15. Nhịn các thứ lúa gạo, ngũ cốc.
  16. Chỉ Tôn Thất Bá làm Án sát bấy giờ. Buổi sớm mai ngày mồng tám, quân Pháp mới kéo đến, ông Bá xin giấy ra thành để thương thuyết với tướng Pháp xin hoãn binh. Sau khi thành bị hạ, tướng Pháp giao thành lại, ông Bá đứng nhận. Ông ấy lấy chứng cớ mình ra ngoài hội thương mà đổ trách nhiệm đánh nhau cho một mình quan Tổng đốc, còn mình không can dự.
  17. Hai vùng trời và đất, ý nói sống ở trên đời.
  18. Chế đài là Tổng đốc.
  19. Phiên đài là quan Bố chính.
  20. Hạng tuổi tác.
  21. Bình phong là núi Ngự Bình ở Huế.


Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.