Hương Sơn phong cảnh ca (Vũ Phạm Hàm)

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Xem tác phẩm có tựa đề tương tự tại Hương Sơn phong cảnh ca.
Hương Sơn phong cảnh ca
của Vũ Phạm Hàm

Hựu hà tất Bồng-châu Doanh-hải[1],
Tiểu sơn-lâm mà có đại kỳ-quan[2].
Người tai mắt kẻ nhân gian,
Ai chẳng đến Hương-sơn thì cũng tục.
Kể từ lúc bước lên đò Đục[3],
Liếc mắt trông đà mãn mục vân sơn[4].
Lần theo một giải thanh tuyền,
Nào ngư-phủ nhập Đào-nguyên[5] đâu cũng thế.
Mặt trời gác bóng cây xê-xế.
Tản vân in thủy để rành-rành.
Chim trời mấy chiếc lênh-đênh,
Cây mai, rụng rập-rềnh năm bảy lá.
Chú tiều-tử ruổi rong bến đá,
Lũ ngư-ông quảy cá qua cầu.
Cỏ cây xanh ngắt một mầu,
Núi trước núi sau mình ở giữa.
Đoàn mục-thụ[6] bóng chiều vừa ngả,
Dắt trâu về lả-tả đầu ghềnh.
Trong hang sâu thăm-thẳm một mình,
Thế mới biết « sơn thủy hữu tình » là chốn ấy.
Dừng chèo lại, càng trông càng thấy:
Núi mờ xanh từng dẫy ngất non thiêng.
Kìa núi , núi Tượng, núi Trống, núi Chiêng[7],
Chưa qua núi lại đò nghiêng bên cạnh núi.
Thoạt trông thấy biết đâu mà hỏi,
Cầu đăng tiên nọ lối đăng doanh,
Gót in đá biếc xanh xanh,
Lòng trần tục bỗng không thanh-thảnh nhẹ.
Cao chót-vót một tòa cổ-sái[8],
Ấy chi chi nọ trái Thiên-trù[9].
Trăng trong gió mát một bầu,
Ngắm phong cảnh bồng-hồ[10] đâu đó tá.
Động-đào đã giang tay mở khóa,
Càng nhìn lâu càng rõ càng xinh.
Cây xanh xanh mà lá cũng xanh xanh,
Dưới một núi lại trèo quanh một núi.
Nước công đức trong ngần không chút bụi,
Đường lên tiên đây là suối Giải-oan[11].
Thảnh-thơi bạch thạch thanh tuyền,
Thế mới biết thiên tiên diệu thú.
Thơ rằng: Bộc bố khê lưu sơn diệc,
         瀑 布 溪 流 山
Nhân thanh cốc ứng thạch năng ngôn[12].
         人 聲 谷 應 石 能 言
Trông lên trời nhỏ con con,
Mình ta đã lon-chon trên đỉnh núi!
Đứng núi nọ tưởng núi kia là cuối,
Bước chân lên đường núi vẫn không cùng.
Trèo qua một dịp chấn-song[13],
Đấy mới biết quần phong chi đệ nhất[14].
Niệm nam-vô-a-di-đà-phật,
Mảng vui chơi quên mất đường xa.
Quả mơ non với nước già[15],
Trong chân cảnh nhìn ra chân vị.
Trong bụi rậm đàn chim thủ-thỉ,
Dưới rừng xanh mấy chị tìm mơ;
Lá vàng man-mác ngẩn-ngơ,
Tam quan đã tờ mờ đâu đó phải.
Chân bước đi mặt còn ngỏanh lại,
Ước gì đường dài mãi thì hay.
Nào ngờ tiên lĩnh trời xây,
Lối vào đã vén mây trông rõ.
Vạn trạng thiên hình vô số,
Vẫn hãy còn giấc ngủ lơ-mơ.
Xanh như mây mà đá trơ trơ,
Trên vách phấn tờ-mờ treo giá áo[16].
Này « kho tiền », này « kho bạc » này « buồng tầm » này « lẫm gạo »[17],
Phật Quan-Âm[18] thiên-tạo một tòa.
Bốn bề như gấm như hoa,
Đố ai lấy nhân-công mà vẽ được?
Dưới cầu bạch trong veo dòng nước,
Núi bình-phong đứng trước phật-đình.
Chim gõ mõ, vượn tụng kinh,
Giục lòng khách năm canh chải-chuốt.
Chữ rằng: « Nam-thiên chi đệ nhất ».
Bút anh-hùng có thật không sai.
Cảnh tiên nào có riêng ai,
Hễ ai hết tội trần-ai thời đến được.
Dục đáo Hương-sơn bất khả ước[19],
Khen cho ai biết trước cũng là tiên.
Ai ơi! chẳng đến cũng hèn!

   




Chú thích

  1. Là những chốn tiên-cảnh, thường nói trong sách Tàu.
  2. Hai câu này ý nói: cứ gì phải cầu kỳ những chốn thần tiên ở đâu xa, ngay chỗ động Hương-tích ở đất nước nhà là nơi rừng núi nhỏ mà phong cảnh đẹp lạ.
  3. Tức là bến Đục-khê, lên đấy rồi xuống đò suối vào chùa.
  4. Đầy mắt những mây cùng núi.
  5. Tích cũ: Cuối đời Tấn bên Tàu có một người đi đánh cá đi vào một cái suối hoa-đào (đào-nguyên), vào mãi hóa ra chốn động tiên: đây ý nói phong-cảnh đẹp như chốn động tiên.
  6. Bọn chăn trâu.
  7. Người ta nhân các quả (trái) núi hơi phảng-phất như hình con gà, con voi, cái trống, cái chiêng, mà đặt các tên ấy.
  8. Là chốn phong-cảnh sầm-uất có tiếng đã lâu.
  9. Thiên-trù (bếp trời) là tên chữ một ngôi chùa làm gần động, thường gọi là chùa ngoài, đến đấy rồi mới đến động.
  10. Là chốn đẹp-đẽ như nơi tiên ở.
  11. Lối vào động có một cái suối nước trong tự trong đá chảy ra, gọi là « suối Giải-oan ».
  12. Nghĩa là: cái thác nước tự trong khe chảy ra, trông hình như núi cũng múa; tiếng người nói trong hang vang lại, tưởng chừng như đá biết nói.
  13. Lối vào động có một chỗ đường cao lắm mà giốc lắm, gọi là chấn song.
  14. Quả cao nhất trong các quả núi.
  15. Chỗ chùa Hương sản mơ, khách trẩy chùa thường ăn quả mơ và uống nước nấu gỗ mơ.
  16. « Giá áo » hay « mắc áo » là tên người ta thường gọi những thạch-nhũ dủ xuống ở trong động.
  17. Người ta theo hình dáng các tảng đá ở trong động mà đặt các tên này.
  18. Động Hương-tích tục truyền là chỗ hóa thân của đức Phật-Bà Quan-Âm.
  19. 欲 到 香 山 不 可 約 muốn đến chùa Hương không thể ước trước được.


Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.