Bước tới nội dung

II Sa-mu-ên/22

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
(Đổi hướng từ II Sa-mu-ên/Chương 22)
II Sa-mu-ên của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 22

Bài ca của Đa-vít[1]

221 Khi Đức Giê-hô-va đã giải-cứu Đa-vít khỏi tay các thù-nghịch và khỏi tay Sau-lơ, thì người hát các lời nầy mà ngợi-khen Đức Giê-hô-va, 2 rằng:

Đức Giê-hô-va là hòn đá và đồn-lũy tôi, Đấng giải-cứu tôi.
3 Đức Chúa Trời tôi là hòn đá tôi, nơi tôi sẽ nương-náu mình,
Là thuẫn-đỡ tôi, sừng chửng-cứu tôi,
Ngọn tháp cao và nơi nương-dựa của tôi;
Hỡi Đấng che-chở tôi! ấy Ngài giải-cứu tôi khỏi sự hung-bạo.
4 Tôi sẽ kêu-cầu cùng Đức Giê-hô-va, là Đấng đáng khen-ngợi;
Thì tôi sẽ được giải-cứu khỏi các thù-nghịch tôi.
5 Các lượng-sóng của tử-vong đã phủ-bao tôi,
Lụt gian-ác chảy cuộn làm cho tôi sợ-hãi;
6 Những dây của địa-ngục đã vấn tôi,
Lưới sự chết có hãm-bắt tôi.
7 Trong cơn hoạn-nạn tôi cầu-khẩn Đức Giê-hô-va,
Tôi kêu la cùng Đức Chúa Trời tôi.
Ở nơi đền Ngài nghe tiếng tôi,
Tiếng kêu-cầu của tôi thấu đến tai Ngài.
8 Bấy giờ, đất động và rung,
Nền các từng trời cũng lay-chuyển,
Nó rúng-động, vì Ngài nổi giận.
9 Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài,
Và từ miệng Ngài phát ra ngọn lửa hực.
Ngài khiến than hừng đỏ phun ra,
10 Làm nghiêng-lệch các từng trời, và ngự xuống,
Dưới chơn Ngài có vùng đen-kịt.
11 Ngài cỡi một chê-ru-bin và bay;
Ngài hiện ra trên cánh của gió.
12 Ngài bủa sự tối-tăm, những vùng nước, những mây đen-mịt,
Chung-quanh mình như một cái trại.
13 Từ sự rực-rỡ ở trước mặt Ngài,
Những than hực chiếu sáng ra.
14 Đức Giê-hô-va sấm-sét trên các từng trời,
Đấng Chí-cao làm cho tiếng Ngài vang rân.
15 Ngài bắn tên, làm cho quân-thù tôi tản-lạc,
Phát chớp-nhoáng, khiến chúng nó lạc đường.
16 Bởi lời hăm-he của Đức Giê-hô-va,
Bởi gió xịt ra khỏi lỗ mũi Ngài,
Đáy biển bèn lộ ra,
Nền thế-gian bị bày tỏ.
17 Từ trên cao, Ngài giơ tay ra nắm tôi,
Rút tôi ra khỏi nước sâu.
18 Ngài giải-cứu tôi khỏi kẻ thù-nghịch cường-bạo,
Khỏi kẻ ghét tôi, vì chúng nó mạnh hơn tôi.
19 Trong ngày hoạn-nạn chúng nó đến xông vào tôi;
Nhưng Đức Giê-hô-va nưng-đỡ tôi.
20 Ngài đem tôi ra nơi rộng-rãi,
Giải-cứu tôi, vì Ngài ưa-thích tôi.
21 Đức Giê-hô-va đã thưởng tôi tùy sự công-bình tôi,
Báo tôi theo sự thanh-sạch của tay tôi.
22 Vì tôi có giữ theo các đường-lối của Đức Giê-hô-va,
Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời tôi.
23 Vì các mạng-lịnh của Ngài đều ở trước mặt tôi,
Tôi chẳng lìa xa các luật-lệ Ngài.
24 Tôi cũng ở trọn-vẹn với Ngài,
Và giữ lấy mình khỏi gian-ác.
25 Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã báo tôi tùy sự công-bình tôi,
Thưởng tôi theo sự tinh-sạch tôi trước mặt Ngài.
26 Kẻ hay thương-xót, Chúa sẽ thương-xót lại;

Đối cùng kẻ trọn-vẹn, Chúa sẽ tỏ mình trọn-vẹn lại.
27 Đối cùng kẻ tinh-sạch, Chúa sẽ tỏ mình tinh-sạch lại;
Còn đối cùng kẻ trái-nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt-nhiệm lại.
28 Vì Chúa cứu dân bị khốn-khổ;
Nhưng mắt Chúa coi chừng kẻ kiêu-căng đặng làm chúng nó bị hạ xuống.
29 Đức Giê-hô-va ôi! thật Ngài làm ngọn đèn tôi,
Và Đức Giê-hô-va sẽ chiếu sáng sự tối-tăm tôi.
30 Nhờ Ngài tôi sẽ xông ngang qua đạo-binh,
Cậy Đức Chúa Trời tôi, tôi vượt khỏi tường-thành.
31 Còn Đức Chúa Trời, các đường của Ngài vốn là trọn-vẹn,
Lời của Đức Giê-hô-va là tinh-tường.
Ngài là cái thuẫn cho mọi người nương-náu mình nơi Ngài.
32 Vậy, trừ ra Đức Giê-hô-va ai là Đức Chúa Trời?
Ai là hòn đá lớn, nếu không phải là Đức Chúa Trời chúng ta?
33 Đức Chúa Trời là đồn-lũy vững-chắc của tôi,
Ngài dắc người trọn-vẹn vào đường chánh-đáng.
34 Ngài làm cho chơn tôi lẹ như chơn nai cái,
Và để tôi đứng trên các nơi cao của tôi.
35 Ngài tập tay tôi chiến-trận,
Đến đỗi cánh tay tôi giương nổi cung đồng.
36 Chúa đã ban sự chửng-cứu cho tôi làm cái khiên,
Và sự hiền-từ Chúa đã làm cho tôi nên sang-trọng.
37 Chúa mở rộng đường dưới bước tôi,
Và chơn tôi không xiêu-tó.
38 Tôi đuổi theo kẻ thù-nghịch tôi, và hủy-diệt nó,
Chỉ trở về sau khi đã tận diệt chúng nó.
39 Tôi trừ-tiệt, đâm lủng chúng nó, không thể dậy lại được;
Chúng nó sa ngã dưới chơn tôi.
40 Vì Chúa đã thắt lưng tôi bằng sức-mạnh để chiến-trận,
Và khiến kẻ dấy nghịch cùng tôi xếp-rệp dưới tôi.
41 Chúa cũng khiến kẻ thù-nghịch xây lưng cùng tôi,
Hầu cho tôi diệt những kẻ ghét tôi.
42 Chúng nó trông-ngóng, nhưng chẳng ai cứu cho;
Chứng nó kêu cùng Đức Giê-hô-va, song Ngài không đáp lại.
43 Bấy giờ tôi đập-giập chúng nó khác nào bụi dưới đất;
Chà-nát, giày-đạp chúng nó giống như bùn ngoài đường.
44 Chúa đã giải-cứu tôi khỏi sự tranh-giành của dân-sự tôi,
Gìn-giữ tôi để làm đầu các nước;
Một dân-tộc tôi không quen-biết sẽ phục-sự tôi.
45 Các người ngoại-quốc sẽ phục dưới tôi;
Vừa nghe nói về tôi, chúng nó đều vâng theo tôi.
46 Các người ngoại-quốc sẽ tàn-mọt,
Đi ra khỏi chỗ ẩn mình cách run-sợ.
47 Đức Giê-hô-va hằng sống; đáng ngợi-khen hòn đá lớn tôi!
Nguyện Đức Chúa Trời, là hòn đá của sự chửng-cứu tôi, được tôn-cao!
48 Tức là Đức Chúa Trời báo-thù cho tôi,
Khiến các dân-tộc qui-phục tôi.
49 Ngài giải-cứu tôi khỏi kẻ thù-nghịch;
Thật Chúa nâng tôi lên cao hơn kẻ dấy nghịch cùng tôi,
Và cứu tôi khỏi người hung-bạo.
50 Vì vậy, Đức Giê-hô-va ôi!
Tôi sẽ khen-ngợi Ngài tại giữa các dân,

Và ca-tụng danh của Ngài.
51 Đức Giê-hô-va ban cho vua của Ngài sự giải-cứu lớn-lao,
Và làm ơn cho đấng chịu xức dầu của Ngài,
Tức là cho Đa-vít và cho dòng-dõi người, đến đời đời.

  1. Bài ca nầy cũng có trong Thi-thiên, đoạn 18.