Lư Khê nhàn điếu

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Lư Khê nhàn điếu
của Mạc Thiên Tứ

Bài phú Lư Khê nhàn điếu, tên đầy đủ là Lư Khê nhàn điếu tam thập nhị phú là bài phú dài hơn trăm câu do Mạc Thiên Tứ sáng tác, được xếp chung trong tập thơ Minh Bột di ngư.

Bài phú này còn tồn tại là nhờ nó được Phạm Nguyễn Du (1739 - 1786, tên thật: Phạm Vĩ Khiêm; hiệu: Thạch Động; người huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1779, tác giả Nam hành kí đắc tập) ghi lại trong Nam hành ký đắc tờ 27a-29a, mang ký hiệu A. 2939 hiện lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tài liệu này chỉ có ở miền Bắc nên trong Văn học Hà Tiên (bản in năm 1970), thi sĩ Đông Hồ chỉ giới thiệu được một đoạn của bài phú Lư Khê nhàn điếu còn sót trên tường Mạc Công Miếu ở Hà Tiên.

Năm 1980, Cao Tự Thanh thông báo tài liệu này với nữ sĩ Mộng Tuyết để bà liên hệ với Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) nhờ sao lại. Năm 1986, Mộng Tuyết đã trao bản ấy cho học giả Giản Chi phiên dịch và công bố trong tập Kỷ yếu 250 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), do Sở Văn hóa và Thông tin Kiên Giang xuất bản năm 1987; và sau nữa cho in lại trong Văn học Hà Tiên (Đông Hồ biên soạn, bản in lại năm 1999), nhưng có vài chỗ chưa thật đúng về văn bản.

Phiên âm Hán - Việt:
Hải khoát, thiên không,
Vân cao, thủy dung.
Thời hoa nhược cựu.
Thế sự vô cùng.
Tuần du ư thương ba chi thượng,
Tùng phiếm ư Nam phố chi đông.
Duy độn thương chi đắc lộ.
Cố vật ngã chi hữu cùng,
Nguyên thác tôn ư mang điểu,
Thú vô tình ư cùng thông.
Trữ tri di thứ,
Lão tác ngư ông.
Ư thị:
Kiết điếu cụ,
Phất xoa lạp.
Thiên khinh châu,
Sự cao bồng,
Ngư khinh, trà táo.
Tửu úng, thi đồng
Dụng bị, ứng sự
Ốn trục khinh chình phong,
Sấn trào ba chi thành vụ,
Nhậm thần hôn dĩ cần công.
Đỗ quyên lưu nhi phiếm lạm,
Đích quyên hử chi sung dung.
Nhất can trường dự,
Nhàn điếu thử trung.
Nhĩ nãi: niêm hương nhị hề phao khinh kiển.
Trầm tân nguyệt hề hoành đế đổng.
Nhất lũ tài thùy,
Vạn ba tùy động.
Ngọc thốc vựng viên,
Tiêu trữu phong lộng.
Ỷ tiếp hề trầm ngâm,
Tùy cơ hề vãn khống.
Ngô phi thực nhi đa cầu,
Vật nhân tham nhi tự tống.
Tá thứ tiêu bỉ.
Di di không không.
Chí ư: khê khẩu trào bình,
Hải đầu quang lạc,
Yên ba đáo xứ,
Tận kỹ thanh sảng,
Tất đắc giải thưởng.
Thụ thảo ông âm ư khê bạn hề, trừ phố hà lô;
Phong vân liêu điểu ư hài tây hề, thủy thiên hạo hoảng
Sa điểu kinh thời nhi cao tường,
Phù diệp tùy lưu nhí đãng dạng,
Văn mục địch chi trường suy,
Lai ngự ca nhi đệ hưởng.
Ki trừ can dĩ phóng hoài.
Phục tư nhân hồ tưởng tượng.
Nhiên nhi:
Phiến phàm yên thủy
Lưỡng tương thương lang[1]
Bất tri vinh phú.
Nhậm lạc khang trang
Nghi phù du ư thiên ngoại hề, hàng xuất một hồ uông dương:
Kí phiêu linh ư ngư bạc hề, kì thê tức Hồ Hoài Giang[2].
Dĩ đa tình ư Trương Tử[3] hề, tương hữu ỷ ư Nghiêm Quang[4].
Mộ Quý Trát[5] chi thượng thanh vi hề, miến Chi Di[6] chi sự minh mang.
Dẫn Nhậm công[7] chi điếu hề, nghi hồ thư quyển.
Phù Trọng Do[8] chi phu hề, nguyên hĩ tung hoành.
Hệ thử sinh ư Nam hải,
Lạc tạo vật hồ tiền trình,
Hữu thời ngộ ư phong cao, lãng chấn hề, đa sử nhân ư hãi hãi, hồn kinh
Hữu thời hám hồ cốc văn liên y hề, đa sử nhân hồ tâm khoáng thần thanh
Hữu thời đổ ngư được diên phi hề, đa sử nhân ư đạo niệm, hưu minh.
Hữu thời cảm ư bạch vân lưu thủy hề, đa sử nhân ư vật ngã vong tình.
Tự thị:
Muội đán vãng lai,
Thê trì trách hạm,
Hoặc tùy tướng nhi bạc lô âm…
Hoặc hoành cà nhi ca dạ tĩnh:
Hoặc bát tương ư khốn ngư,
Hoặc bài luân ư dẫn ngạnh.
Giác thiên địa hề vô di,
Cực phong sương hề tự mãnh.
Bạc phù sinh ư âu vân,
Thị vạn vật như hào dĩnh,
Sưởng hoàng hoa hề dã vong,
Bi phiêu linh hề độc cảnh.
Nhi hựu:
Tư mỹ nhân hề, diểu hà chi,
Hoài cố quốc hề đồ dẫn lĩnh!
Tri cán thực hề canh tường,
Cố tiêu y hề khâm ảnh.
Quý trưởng đại chi vô tài,
Không cảm phẩu ư quang cảnh
Kí can trúc chi sinh nhai
Am thử sinh ư hữu hanh.
Đối văn thủy dĩ chung niên,
Lạc yên ba ư vạn khoảnh.
Kì bất phụ hồ ngư lạc bán sinh trung,
Sướng dư hoài nhi thi ca tam thập vịnh.

   




Chú thích

  1. Thương Lang: tức sông Hán Thủy, Trung Quốc
  2. Hoài Giang: tức sông Hoài, Trung Quốc
  3. Trương Tử Phòng: tức Trương Lương. Ông này giúp Lưu Bang dựng thành đế nghiệp, rồi lui về ở ẩn, học đạo với Xích Tùng Tử
  4. Nghiêm Quang: tức Nghiêm Tử Lăng. Gặp lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, ông đi ẩn cư trên sông Phú Xuân (huyện Đồng Lư, Chiết Giang) lấy câu cá làm vui
  5. Quý Trát: được vua cha lập làm thái tử, ông không nhận
  6. Chi Di: tức Phạm Lãi, là một tướng tài của nước Việt ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô
  7. Nhậm công: không rõ, chỉ biết trong sách Trang Tử có câu: Nhậm công tử kỷ niên bất đắc ngư (Nhậm công tử buông câu ở bể Đông, cả năm không được cá)
  8. Trọng Do: tức Tử Lộ: Ông là một trong những học trò giỏi cua Khổng Tử. Khi còn hàn vi, nhà rất nghèo túng. Tử Lộ quanh năm vất vả, một niềm phụng dưỡng cha mẹ rất chu đáo