Bước tới nội dung

Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen
của Lê Quý Đôn

Bài văn sách bằng chữ Nôm của Lê Quý Đôn, hỏi về câu "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen".

CÂU HỎI


Vấn: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang-điểm má hồng răng đen.
Truyện rằng: « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ ».
Kim khảo[1]: « Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ». Tằng kiến[2] ư thiên vạn nữ nhi chi nghị; bất tri hà sở thủ ư anh đồ, nhi quyến luyến nhược thị[3] dư?
Thí vị trần chi, dĩ quan xuân-hoài tình-tự[4].

BÀI LÀM


Em nghe rằng: sen ngó đào tơ, may gặp hội hôn-nhân chi phải lứa; chả chim cơm trắng, vẫn là mong giải-cấu[5] chi tốt đôi; chọn mặt gửi vàng, dẫu ý ai cũng vậy.
Nay vâng lời sách hỏi mà lược bày ra.
Trộm nghĩ rằng: rồng bay còn đợi đám mây, bắn bình tước[6] phải đợi tay anh hùng. Lấy chúng em chi má đỏ hồng hồng, răng đen nhưng-nhức, chẳng những muốn cô tú, dì nho chi dự, vẫn là mong chồng loan, vợ phụng chi chung tình. Nếu mà cú đậu cành mai, thì công trang-điểm chẳng hoài lắm ru? Vậy nên sớm gửi tơ duyên, ai là chẳng ngọc đá vàng thau, chi lựa ngọc.
Nay xét phương ngôn, chị em bạn gái nói chuyện rằng:
— « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ ».
Ý trộm nghĩ rằng: Ngọc còn đợi giá, vàng chẳng lộn thau. Cây gỗ lim chìm, quyết chẳng nỡ mang làm cọc giậu, hoa đào tươi tốt, hẳn không đem bán cho lái buôn. Cam đường với quả quít hôi, cũng cân nhắc ba đồng một, một đồng đôi chi giá.
Thử ngó coi: ruộng sâu ao cả, chàng nông kia chi trọc phú[7] những khoe giàu, song Vương-Khải, Thạch-Sùng đã từng đấu phú[8], rồi cũng giương mắt ếch ư của đời người thế chi thu.
Nghiên ruộng bút cày, anh đồ nọ chi đa văn[9] không ngại khó; kia Mãi-Thần, Mông-Chính có lẽ tràng bần[10], rồi cũng bổng cánh hồng ư bĩ cực thái lai chi hội.
Nông nhì sĩ nhất, lẽ ấy đã rành.
Vả: chân lấm tay bùn, chàng nông nãi vũ-phu chi cục-kịch, lấy yếm thắm giải đào chi tha-thướt, giá thể mà mang bầu xách lọ, sao cho cam hạt ngọc để ngâu vầy.
Miệng thêu dạ gấm[11], anh đồ là quân-tử chi dịu-dàng, lấy môi son má phấn chi nhởn-nhơ, giá thể mà sửa túi nâng khăn, thì mới đáng cành ngô cho phượng đậu.
Vậy có thơ rằng:
     Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng,
     Chẳng bằng kinh sử một vài pho.
Lại có thơ rằng:
     Gươm trời chi để tay phàm tuốt,
     Búa nguyệt[12] sao cho đứa tục mài.
Vả: tiếng tăm con gái, nết na học trò, nên em nghĩ duyên em, em nghĩ tình em, lại tưởng đến anh đồ chi sự-nghiệp. Đèn xanh một ngọn, án tuyết ân-cần; quyển vàng mấy pho, cửa huỳnh[13] gióng-giả.
Còn trong trần-lụy, anh đồ là vị vũ chi giao long, may khoa thi mà kim-bảng[14] đề danh, tức hôm nọ chi hàn nho, mà hôm nay đã bảng-nhỡn, thám-hoa[15] chi đài các, em phỏng có duyên ưa lá thắm, thì trước voi anh, sau võng thiếp, cũng thỏa đời ư võng lọng chi nghênh-ngang.
Đương thuở hàn vi, anh đồ là tại sơn chi hổ báo, gặp vận thái mà thanh-vân đắc-lộ, tức bữa tê chi tiện-sĩ, mà bữa ni đã thượng-thư, đô-đốc chi phong-phú; em phỏng như phận đẹp chỉ hồng, thì anh quan cả thiếp hầu bà, cũng sướng kiếp ư ngựa xe chi đủng-đỉnh!
Huống chi: kinh sử lầu thông, anh đồ chi tài học, đã sẵn tay kinh-tế; tuy có dài lưng tốn vải, bấy giờ đã đai vàng áo gấm chi bảnh-bao.
Tài năng rất mực, anh đồ chi duyên-phận, gặp được lúc long vân; tuy có ăn no lại nằm, bấy giờ cơm chúa võng đào chi chểnh-chện.
Gương-trời vằng-vặc, sáng soi nhà vàng gác tía chi linh-lung.
Lộc nước miên-miên, súc-tích gấm cuốn vàng cân chi ban-cấp.
Như thế thì: chồng quan sang, vợ hầu đẹp, ai chẳng khen nhất thế chi thần tiên. Danh phận cả, bổng lộc nhiều, thế mới thỏa tam-sinh chi hương-hỏa. Khởi vô sở thủ ư anh đồ tai[16]?
Vậy nên: yếm trắng nước hồ, vả đi vả lại, chỉ mong anh nho-sĩ chi yêu-đương. Miệng ong lưỡi én, uốn ngược uốn xuôi, cũng mặc giọng thế gian chi mai-mỉa.
Em nay: tuổi mới giăng tròn, tiết vừa hoa nở; vâng lời sách hỏi, giải hết niềm đơn[17].
Em cẩn thưa.

   




Chú thích

  1. Kim khảo 今攷: nay xét ra.
  2. Tằng kiến 曽見: từng thấy.
  3. Nhược thị: như thế.
  4. Thí vị... tình tự: thử bày tỏ tình tự nhớ xuân.
  5. Giải cấu: gặp gỡ tình duyên.
  6. Bắn bình tước: vẽ ba con chim sẻ vào bình phong đánh số tượng trưng ba cô gái, ba cậu rể bắn được con nào theo số lấy cô ấy (Điển xuất Đường Cao-Tổ).
  7. Trọc phú: giàu mà bẩn.
  8. Đấu phú: đua giàu.
  9. Đa văn: nhiều chữ.
  10. Tràng bần: nghèo mãi.
  11. Cẩm tâm tú khẩu: nói văn hay như thêu như gấm.
  12. Búa nguyệt: cái búa hình trăng lưỡi liềm.
  13. Huỳnh: đom đóm.
  14. Kim bảng: bảng vàng.
  15. Bảng nhỡn: đỗ thứ hai. Thám hoa: đỗ thứ ba (Thi Đình).
  16. Nhẽ đâu anh đồ không có điều gì hay, đáng khen ư?
  17. Niềm đơn: lòng đỏ (niềm là lòng, đơn là son).


Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.