Ly tao

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Ly tao - 離騷
của Khuất Nguyên, do Nhượng Tống dịch

Ly tao là một trong những bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc do Khuất Nguyên sáng tác. Đây là một tác phẩm bất hủ của ông. Tác phẩm dài 370[1] câu tả tâm sự của tác giả. Ly tao được dịch ra theo nghĩa tiếng Việt là sự "oán thán" (lời than vãn), nhưng cũng được biết đến với nghĩa là "sự buồn phiền quá đỗi" hay một "tâm trạng xáo trộn". Đặc sắc của bài trường thiên này là lời bi thảm triền miên, thường dùng lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và dẫn rất nhiều điển cố thần thoại. — Trích dẫn từ Ly tao của Wikipedia, bách khoa toàn thư mở.

Nguyên bản chữ Hán (phiên âm Hán Việt) Dịch thơ của Nhượng Tống
(Đế)(Cao)(Dương)[2](chi)(miêu)(duệ)(hề) Bá Dung[2] nhớ cha ta thuở nọ,
(Trẫm)(hoàng)(khảo)(viết)()(Dung) Vốn dòng vua về họ Cao Dương.
(Nhiếp)(đề)(trinh)(vu)(mạnh)(trâu)(hề) Tháng giêng đầu tiết xuân sang,
(Duy)(canh)(dần)(ngô)()(giáng)[3] Cõi đời ta xuống giữa đương ngày Dần.[3]
(Hoàng)(lẫm)(quỹ)()()(độ)(hề)() Buổi trứng nước ân cần chăm sóc,
(Triệu)(tích)()()(gia)(danh) Biết bao nhiêu khó nhọc công cha.
(Danh)()(viết)(Chính)(Tắc)(hề) Chữ hay kén đặt cho ta:
(Tự)()(viết)(Linh)(Quân)[4] Tên là Chính Tắc, tự là Linh Quân.[4]
(Phân)(ngô)()(hữu)(thử)(nội)(mỹ)(hề) Trong ta đã mười phần lộng lẫy,
(Hựu)(trùng)(chi)()(tu)(năng) Chải chuốt càng thêm nẩy xinh tươi.
(Hỗ)(giang)(ly)(dữ)(tịch)(chi)(hề) Sói ngàn nhài bãi khoác ngoài,
(Nhẫn)(thu)(lan)()(vi)(bội) Tết lan thu lại làm đai đeo thường.
(Cốt)()(nhược)(tương)(bất)(cập)(hề) Sợ chẳng kịp ta càng mê mải,
(Khủng)(niên)(tuế)(chi)(bất)(ngô)(dữ) Tuổi xanh nào có đợi gì ai.
(Triệu)(khiên)()(chi)(Mộc)(lan)[5](hề) Mộc lan[5] sớm cắt trên đồi,
(Tịch)(lãm)(châu)(chi)宿(túc)(mụ) Đông thanh chiều hái bên ngoài bến sông.
(Nhật)(nguyệt)(hốt)(kỳ)(bất)(yêm)(hề) Ngày tháng vút đi không trở lại,
(Xuân)(dữ)(thu)(kỳ)(đại)(tự) Vừa xuân qua đã lại thu sang.
(Duy)(thảo)(mộc)(chi)(linh)(lạc)(hề) Đoái trông cỏ áy cây vàng,
(Khủng)(mỹ)(nhân)(chi)(trì)(mộ) Sợ con người đẹp muộn màng lỡ duyên!
(Bất)(phủ)(tráng)(nhi)(khí)(uế)(hề) Tuổi đang trẻ nết quen càn rỡ,
()(bất)(cải)(hồ)(thử)(độ) Thế mà không đổi sửa cho đành.
(Thừa)(kỳ)()()(trì)(sính)(hề) Ngựa hay cưỡi lấy, đi nhanh,
(Lai)(ngô)(đạo)(phù)(tiên)(lộ) Lại đây ta chỉ cho mình đường quang.
(Tích)(tam)(hậu)(chi)(thuần)(túy)(hề) Đời ba vua thuở đang rực rỡ,
(Cố)(chúng)(phương)(chi)(sở)(tại) Các giống thơm hớn hở đua tươi.
(Tạp)(thân)(tiêu)(dữ)(khuẩn)(quế)(hề) Hoa tiêu, hoa quế lộn mùi,
(Khởi)(duy)(nhân)(phù)(huệ)(chi) Cứ gì hoa huệ được người yêu đương.
(Bỉ)(Nghiêu)(Thuấn)(chi)(cảnh)(giới)(hề) Theo đạo chính nhằm đường ngay thẳng,
()(tuân)(đạo)(nhi)(đắc)(lộ) Nghiêu Thuấn xưa thiệt đấng minh quân.
()(Kiệt)(Trụ)(chi)(xương)(phỉ)(hề) Cớ sao Kiệt Trụ ngu đần,
(Phù)(duy)(tiệp)(kính)()(quẫn) Đâm đầu lối tắt sa chân đường cùng.
(Duy)(phù)(đảng)(nhân)(chi)(du)(lạc)(hề) Hám vui bọn chúng không biết sợ,
(Lộ)(u)(muội)()(hiểm)(ải) Đường tối tăm hiểm trở xiết bao.
(Khởi)()(thân)(chi)(đạn)(ương)(hề) Xe loan e lúc đổ nhào,
(Khủng)(hoàng)輿()(chi)(bại)(tích) Phải rằng ta sợ thiệt vào đến thân!
(Hốt)(bôn)(tẩu)()(tiên)(hậu)(hề) Cố theo kịp gót chân vua trước,
(Cập)(tiền)(vương)(chi)(chủng)() Quản chi công xuôi ngược long đong.
(Thuyên)(bất)(sát)()(chi)(trung)(tình)(hề) Tình ta mình chẳng xét cùng,
(Phản)(tín)(sàm)(nhi)(tễ)(nộ) Nghe lời ton hót đem lòng giận ta!
()(cố)(tri)(kiển)(kiển)(chi)(vi)(hoạn)(hề) Nói thẳng vẫn biết là có hại,
(Nhẫn)(chi)(bất)(năng)(xả)() Biết vậy mà nín mãi không đành!
(Chi)(cửu)(thiên)()(vi)(chính)(hề) Chín lần trời hãy chứng minh,
(Phù)(duy)(linh)(tu)(chi)(cố)() Chỉ vì ta quá yêu mình đấy thôi!
(Viết)(hoàng)(hôn)()(vi)(kỳ)(hề)
(Khương)(trung)(đạo)(nhi)(cải)(lộ); [6]
()()(dữ)()(thành)(ngôn)(hề) Trước cùng ta nặng lời hẹn ước,
(Hậu)(hối)(độn)(nhi)(hữu)(tha) Sau vì đâu đổi khác đơn sai?
()(bất)(nan)(phù)(ly)(biệt)(hề)() Biệt ly ta chẳng quản nài,
(Thương)(linh)(tu)(chi)(sắc)(hóa) Xót mình lòng dạ đổi dời bao phen.
()()()(lan)(chi)(cửu)(uyển)(hề) Chín vườn lan lại nghìn sào huệ,
(Hựu)(thụ)(huệ)(chi)(bách)(mẫu) Một mình ta chăm chỉ hôm mai.
(Huề)(lưu)(di)(dữ)(yết)(xa)(hề) Tử tiêu bạch chỉ xen vai,
(Tạp)(đỗ)(hành)(dữ)(phương)(chi) Kẹ trong đỗ nhược, bao ngoài tân di.
()(chi)(diệp)(chi)(tuấn)(mậu)(hề) Mong cành lá có khi đua nẩy,
(Nguyện)()(thì)(hồ)(ngô)(tương)(ngải) Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi.
(Tuy)(ủy)(tuyệt)(kỳ)(diệc)()(thương)(hề) Bỏ rơi ta thiết chi đời,
(Ai)(chúng)(phương)(chi)(vu)(uế) Thấy trăm hoa chịu lạc loài mà thương!
(Chúng)(giai)(cạnh)(tiến)()(tham)(lam)(hề) Chúng chen chúc trên đường vụ lợi,
(Bằng)(bất)(yếm)(hồ)(câu)(sách) Tấm lòng tham, tham mãi tham hoài!
(Khương)(nội)(thứ)()()(lượng)(nhân)(hề) Đem dạ mình đọ bụng người,
(Các)(hưng)(tâm)(nhi)(tật)(đố) Sinh lòng ghen ghét, đặt lời gièm pha.
(Hốt)(trì)(vụ)()(truy)(trục)(hề) Mồi phú quý cố mà đeo đuổi,
(Phi)()(tâm)(chi)(sở)(cấp) Phải lòng ta có vội thế đâu.
(Lão)(nhiễm)(nhiễm)(kỳ)(tương)(chí)(hề) Cái già sồng sộc theo nhau,
(Khủng)(tu)(danh)(chi)(bất)(lập) E không để được về sau tiếng lành.
(Triêu)(ẩm)(mộc)(lan)(chi)(trụy)(lộ)(hề) Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc,
(Tịch)(xan)(thu)(cúc)(chi)(lạc)(anh) Uống sương sa dưới gốc mộc lan.
(Cẩu)()(tình)(kỳ)(tín)(khóa)()(luyện)(yếu)(hề) Tình yêu khôn đẹp muôn vàn,
(Trường)(kham)(hạm)(diệc)()(thương) Khát hoài! đói mãi! phàn nàn mà chi!
(Lãm)(mộc)(căn)()(kết)(chỉ)(hề) Rút rễ cây ta xe sợi chỉ,
(Quán)(bệ)(lệ)(chi)(lạc)(nhị) Xâu cánh hoa thiên lý xinh xinh.
(Kiều)(khuẩn)(quế)()(nhân)(huệ)(hề) Cánh lan cánh huệ trắng tinh,
(Tác)(hồ)(thằng)(chi)(sỉ)(sỉ) Giây ngần bền dẻo tết manh áo ngoài.
(Kiển)(ngô)(pháp)(phủ)(tiền)(tu)(hề) Áo như thế thói đời chẳng mặc,
(Phi)(thế)(tục)(chi)(sở)(phục) Ta cứ theo phép tắc người xưa.
(Tuy)(bất)(chu)(ư)(kim)(chi)(nhân)(hề) Dẫu rằng đời có chẳng ưa,
(Nguyện)(y)(Bành)(Hàm)[7](chi)(di)(tắc) Thì xin theo lối cũng như Bành Hàm.[7]
(Trường)(thái)(tức)()(yểm)(thế)(hề) Đời người khổ kể làm sao xiết!
(Ai)(dân)(sinh)(chi)(đa)(gian) Đành than dài gạt vết lệ hoen.
(Du)(tuy)(hiếu)(tu)(khóa)()()(ky)(hề) Làm xinh ta khéo vô duyên,
(Kiển)(triêu)(đốt)(nhi)(tịch)(thế) Sớm vừa can gián chiều liền sa cơ.
(Kỳ)(thế)()()(huệ)(tương)(hề) Sa cơ mặc nhởn nhơ vẫn thế,
(Hựu)(thân)(chi)()(lãm)(chi) Vẫn đeo lan dắt huệ như xưa.
(Diệc)()(tâm)(chi)(sở)(thiện)(hề) Lòng ta đã thích đã ưa,
(Tuy)(cửu)(tử)(kỳ)(do)(vị)(hối) Dẫu rằng chín chết có chừa được đâu.
(Oán)(linh)(tu)(chi)(hạo)(đãng)(hề) Trách mình chẳng suy sau xét trước,
(Chung)(bất)(sát)(phù)(dân)(tâm) Mãi mãi không rõ được thói đời.
(Chúng)(nữ)(tật)()(chi)(nga)(mi)(hề) Chúng ghen ta có mày ngài,
(Dao)(trác)(vị)()()(thiện)(dâm) Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ.
(Cố)(thì)(tục)(chi)(công)(xảo)(hề) Người đời thật đã thừa khôn khéo,
(Miến)(quy)(củ)(nhi)(cải)(thố) Đua nhau theo mức vẹo thước cong.
(Bội)(thằng)(mặc)()(trụy)(khúc)(hề) Khuôn vuông mẫu thẳng chẳng dùng,
(Cạnh)(chu)(dung)()(vi)(độ) Cúi luồn cầu cạnh một dòng như nhau!
(Đồn)(uất)(ấp)()()(sế)(hề) Một mình chịu nuốt sầu ngậm tủi,
(Ngô)(độc)(cùng)(khốn)(hồ)(thử)(thì)() Nói ai hay nông nỗi lúc này?
(Ninh)(khạp)(tử)()(lưu)(vong)(hề) Thà cho sống đọa thác đày,
()(bất)(nhẫn)(vi)(thử)(thái) Lòng ta không nỡ để lây thói thường!
(Chí)(điểu)(chi)(bất)(quân)(hề) Loài chim cắt ngang tàng bay bổng,
(Tự)(tiền)(thế)(nhi)(cố)(nhiên) Vốn xưa nay là giống không đàn.
()(phương)(viên)(chi)(năng)(chu)(hề) Vuông tròn vốn chẳng cùng làn,
(Phù)(thục)(dị)(đạo)(nhi)(tương)(yên) Khúc đường ai để yên hàn cho ai?
(Khuất)(tâm)(nhi)(ức)(chí)(hề) Tránh điều lỗi, mặc đời xoi mói!
(Nhẫn)(vưu)(nhi)(nhương)(cấu) Nén chí xưa, cam nỗi xót xa.
(Phục)(thanh)(bạch)()(tử)(trực)(hề) Thánh hiền xưa cũng như ta,
(Cố)(tiền)(thành)(chi)(sở)(hậu) Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong!
(Hối)(tướng)(đạo)(chi)(bất)(sát)(hề) Tiếc nhận lối mà không biết lối,
(Diên)(trữ)(hồ)(ngô)(tương)(phản) Liệu về thôi, ở lại chi lâu?
(Hồi)(trẫm)(xa)()(phục)(lộ)(hề) Lạc đường cũng chửa xa đâu,
(Cập)(hành)()(chi)(vị)(viễn) Quay xe trở lại cho mau còn vừa.
(Bộ)()()(u)(lan)(cao)(hề) Giục vó ngựa lên bờ lan dã,
(Trì)(tiêu)(khâu)(thả)(yên)(chi)(tức) Sang gò tiêu thong thả nghỉ ngơi.
(Tiến)(bất)(nhập)()(ly)(vưu)(hề) Tiến ra chẳng hợp với đời,
退(Thoái)(tương)(phục)(tu)(ngô)()(phục) Lui về sửa lại mặc ngoài cho xinh.
(Chế)(kỳ)()()(vi)(y)(hề) Hái sen súng, cắt manh áo đẹp,
(Tập)(phù)(dung)()(vi)(thường) Cắt phù dung may nếp xiêm dài.
(Bất)(ngô)(tri)(kỳ)(diệc)()(hề) Đời không biết đến mặc đời,
(Cẩu)()(tình)(kỳ)(tín)(phương) Tình ta vẫn hẳn vẹn mười thơm tho.
(Cao)()(quan)(chi)(ngập)(ngập)(hề) Mũ ta đội xốc cho cao ngất,
(Trường)()(bội)(chi)(lục)(ly) Đai ta đeo buông thật dịu dàng.
(Phương)(dữ)(trạch)(kỳ)(tạp)(nữu)(hề) Khắp mình thơm nức sáng choang,
(Duy)(chiêu)(chất)(kỳ)(do)(vị)(khuy) Đẹp còn giữ được chất thường chưa phai.
(Hốt)(phản)(cố)()(du)(mục)(hề) Chợt quay lại liếc chơi, ta muốn
(Tương)(vãng)(quan)(hồ)()(hoang) Đi xem cho khắp bốn cõi hoang.
(Bội)(bân)(phân)(kỳ)(phồn)(sức)(hề) Rung rinh bao thú điểm trang
(Phương)(phi)(phi)(kỳ)(di)(chương) Ngọt ngào càng thấy rõ ràng mùi thơm.
(Dân)(sinh)(các)(hữu)(sở)(nhạo)(hề) Đời ai cũng riêng ham từng món,
()(độc)(hiếu)(tu)()(vi)(thường) Như ta đây chỉ muốn làm xinh.
(Tuy)(thế)(giải)(ngô)(do)(vị)(biến)(hề) Phân thây xé xác cũng đành,
(Khởi)()(tâm)(chi)(khả)(trừng) Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao?
(Nữ)(tu)[8](chi)(thiền)(viên)(hề) Tiếng cô chị[8] bước vào léo xéo,
(Thân)(thân)(kỳ)(lệ)() Mắng ta rằng rõ khéo ngẩn ngơ,
(Viết):“(Cổn)[9](hãnh)(trực)()(vong)(thân)(hề) "Bướng như chàng Cổn[9] ngày xưa,
(Chung)(nhiên)(yểu)(hồ)()(chi)() Bỏ mình núi Vũ bây giờ ai thương?
(Nhữ)()(bác)(kiển)(nhi)(hiếu)(tu)(hề) Sao em thích khoe khoang chải chuốt,
(Phân)(độc)(hữu)(thử)(khóa)(tiết) Riêng một mình giữ một vẻ xinh?
()(lục)(thi)()(doanh)(thân)(hề) Đầy nhà dây dợ, cỏ tranh,
(Phán)(độc)(ly)(nhi)(bất)(phục) Người ta mặc cả sao mình lại không?
(Chúng)(bất)(khả)(hộ)(thuyết)(hề) Nói với chúng dễ hòng nói xiết!
(Thục)(vân)(sát)()(chi)(trung)(tình) Ai là người xét biết lòng ta?
(Thế)(tịnh)(cử)(nhi)(hiếu)(bằng)(hề) Đời đều bè đảng gian tà,
(Phù)()(quynh)(độc)(nhi)(bất)()(thính)。” Một mình ta nói, nói mà ai nghe?"
(Y)(tiền)(thánh)()(tiết)(trung)(hề) Trong đạo thành liệu bề theo dõi,
(Khoái)(bằng)(tâm)(nhi)(lịch)() Đến chi đây xiết nỗi tân toan.
(Tế)(Nguyên)(Tương)()(nam)(chinh)(hề) Sang Nam qua ngọn Tương Ngoan,
(Diêu)(Trọng)(Hóa)[10](nhi)(trần)(từ) Tới đền vua Thuấn,[10] ta than vài lời:
(Khải)(cửu)(biện)(dữ)(cửu)(ca)(hề) "Mê hát xướng kìa đời nhà Hạ,
(Hạ)(Khang)(nhu)()(tự)(túng) Vua Thái Khang thỏa dạ vui chơi,
(Bất)(cố)(nạn)()(đồ)(hậu)(hề) Chẳng lo chẳng nghĩ lâu dài,
(Ngũ)(tử)(dụng)(thất)(hồ)(gia) Năm con mới phải lạc loài bốn phương.
羿(Nghệ)(dâm)(tu)()(dật)(điền)(hề) Vua Nghệ chỉ ham đường săn bắn,
(Hựu)(hiếu)(xạ)(phù)(phong)(hồ) Say chim muông quên hẳn việc thường.
(Cố)(loạn)(lưu)(kỳ)(tiển)(chung)(hề) Tham vui vua Xác hoang toàng,
(Xác)(hựu)(tham)(phù)(quyết)(gia) Cả hai đều phải thịt xương tan tành!
(Ngáo)[11](thân)(bị)(phục)(cường)(ngữ)(hề) Đến vua Ngáo[11] cậy mình sức khỏe,
(Túng)(dục)(nhi)(bất)(nhẫn) Chẳng giữ gìn chỉ phí ăn chơi.
(Nhật)(khang)(ngu)(nhi)(tự)(vong)(hề) Quên mình ngày tháng giông dài,
(Quyết)(thủ)(dụng)(phù)(điên)(vẫn) Quá ra khi đã để rơi cả đầu.
(Hạ)(Kiệt)[12](chi)(thường)(vi)(hề) Hạ Kiệt[12] có biết đâu đạo cả,
(Nãi)(toại)(yên)(nhi)(phùng)(ương) Lần lữa trông tai vạ đến nơi.
(Hậu)(Tân)[13](chi)(trư)(hải)(hề) Vua Tân[13] ướp món thịt người,
(Ân)(tông)(dụng)(chi)(bất)(trường) Cũng vì thế mới hết đời nhà Thương!
(Thang)()(nghiễm)(nhi)(chi)(kính)(hề) Lại xét đến Vũ, Thang, Văn, Võ
(Chu)(luận)(đạo)(nhi)(mạc)(sai) Kính mà nghiêm chẳng bỏ đạo hằng.
(Cử)(hiền)(tài)(nhi)(thụ)(năng)(hề) Cất dùng toàn bọn tài năng,
(Tùng)(thằng)(mặc)(nhi)(bất)(pha) Theo khuôn giữ mực thẳng băng một chiều.
(Hoàng)(thiên)()()(a)(hề) Ông trời chẳng riêng yêu ai hết,
(Lãm)(dân)(đức)(yên)(thố)(phụ) Xem thấy ai đức nết thì nên.
(Phù)(duy)(thánh)(triết)()(mậu)(hạnh)(hề) Xưa nay chỉ bậc thánh hiền,
(Cẩu)(đắc)(dụng)(thử)(hạ)(thổ) Thương dân mới được cầm quyền trị dân.
(Chiêm)(tiền)(nhi)(cố)(hậu)(hề) Trông sau trước xét lần sự thế,
(Tướng)(quan)(dân)(chi)(kế)(cực) Hãy để tâm suy nghĩ cho cùng.
(Phù)(thục)(phi)(nghĩa)(nhi)(khả)(dụng)(hề) Làm đâu được việc bất công!
(Thục)(phi)(thiên)(nhi)(khả)(phục) Những phường bất nghĩa có dùng được đâu.
(Điếm)()(thân)(nhi)(nguy)(tử)(hề) Lòng này nghĩ trước sau như một,
(Lãm)()()(kỳ)(do)(vị)(hối) Dẫu chết ngay chẳng chút nôn nao.
(Bất)(lượng)(tạc)(nhi)(chính)(nhuế)(hề) Người xưa oan thác biết bao,
(Cố)(tiền)(tu)()(trư)(hải)。” Theo vuông lựa có vào sao lỗ tròn.
(Tăng)()(hi)()(uất)(ấp)(hề) Nức nở khóc cho buồn đầy dạ,
(Ai)(trẫm)(thì)(chi)(bất)(đáng) Tủi cho thân sinh đã lỗi thời!
(Lãm)(nhự)(huệ)()(yểm)(thế)(hề) Gạt sầu bứt cánh huệ tươi,
(Chiêm)()(khâm)(chi)(lãng)(lãng) Áo khăn lã chã lệ rơi ướt đầm!
(Quy)(phu)(nhẫm)()(trần)(từ)(hề) Quỳ khép áo lầm rầm khấn vái:
(Cảnh)(ngô)()(đắc)(thử)(trung) "Xin dốc theo lẽ phải đường ngay!"
(Tứ)(ngọc)()()(thừa)(ế)(hề) Quay ra đạp gió rẽ mây,
(Kháp)(ai)(phong)()(thượng)(chinh) Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
(Triêu)(phát)(nhẫn)(ư)(Thương)(Ngô)[14](hề) Sớm Thương-Ngô,[14] chiều qua Huyền Phố,[15]
(Tịch)()(chi)(hồ)(Huyền)(Phố)[15] Đến thần linh xa ngó cõi ngoài.
(Dục)(thiểu)(lưu)(thử)(linh)(tỏa)(hề) Chốn này muốn tạm nghỉ ngơi,
(Nhật)(hốt)(hốt)(kỳ)(tương)(mộ) Chiều hôm bảng lảng mặt trời xuống nhanh.
(Ngô)(linh)(Hy)(Hòa)[16](nhĩ)(tiết)(hề) "Hy Hòa[16] hỡi nể tình ta với!
(Vọng)(Yêm)(tu)(nhi)(vật)(bách) Lối non đoài chớ vội xông pha.
(Lộ)(man)(man)(kỳ)(tu)(viễn)(hề) Quản bao nước thẳm non xa,
(Ngô)(tương)(thượng)(hạ)(nhi)(cầu)(sách) Để ta tìm kiếm cho ra bạn lòng!"
(Ẩm)()()(ư)(Hàm)(trì)(hề) Cho ngựa uống bên đồng Dục Nhật,
(Tổng)()()(hồ)(phù)(tang) Buông dây cương ở đất Phù Tang.
(Chước)(nhược)(mộc)()(phất)(nhật)(hề) Nhởn nhơ chốc lát dọc đường,
(Liêu)(tiêu)(diêu)()(tương)(dương) Bẻ cành nhược mộc chăng ngang mặt trời.
(Tiền)(Vọng)(Thư)使(sử)(tiên)(khu)(hề) Chị trăng phải nhanh chân tiến trước,
(Hậu)(Phi)(Liêm)使(sứ)(bôn)(chúc) Dì gió cho lần bước theo sau.
(Loan)(hoàng)(vị)()(tiên)(giới)(hề) Chim loan mở lối đi đầu,
(Lôi)()(cáo)()()(vi)(cụ) Nhưng thầm sấm sét dốc hầu chưa xong!
(Ngô)(linh)(phượng)(điểu)(phi)(đằng)(hề) Ta giục phượng gia công bay mãi,
(Kế)(chi)()(nhật)(dạ) Suốt ngày đêm rong ruổi cho mau.
(Phiêu)(phong)(đồn)(kỳ)(tương)(ly)(hề) Cơn giông bão táp theo hầu,
(Suất)(vân)(nghê)(nhi)(lại)(nhạ) Cầu vồng mống cụt đem nhau đến chào.
(Phân)(tổng)(tổng)(kỳ)(ly)(hợp)(hề) Khắp các ngã trước sau tới tấp,
(Ban)(dục)(ly)(kỳ)(thượng)(hạ) Đủ mọi mầu trên dưới tơi bời...
(Ngô)(linh)(Đế)(hôn)(khai)(quan)(hề) Ta truyền mở cửa nhà trời!
()(xương)(hạp)(nhi)(vọng)() Lính canh lại tựa cửa ngoài nhìn ta.
(Thì)(ái)(ái)(kỳ)(tương)(bãi)(hề) Người mỏi mệt trời đà sẩm tối,
(Kết)(u)(lan)(nhi)(diên)(trữ) Đứng bơ phờ tay với bông lan.
(Thế)(hỗn)(trọc)(nhi)(bất)(phân)(hề) Cõi đời nhơ đục muôn vàn,
(Hiếu)(tế)(mỹ)(nhi)(tật)(đố) Ghét tài, ghét đẹp, thói càn đã quen.
(Triêu)(ngô)(tương)(tế)(ư)(Bạch)(thủy)[17](hề) Sớm dóng ngựa qua miền Bạch Thủy,[17]
(Đăng)(Lãng)(phong)[18](nhi)(tiết)() Lên Lãng Phong[18] ta sẽ dừng cương.
(Hốt)(phản)(cố)()(lưu)(thế)(hề) Không ai là gái đảm đang,
(Ai)(cao)(khâu)(chi)()(nữ) Trông về nước Sở gạt hàng lệ rơi.
(Kháp)(ngô)(du)(thủ)(xuân)(cung)(hề) Chơi cung Xuân này nơi thanh nhã,
(Chiết)(quỳnh)(chi)()(kế)(bội) Đeo dắt thêm hai đóa hoa quỳnh.
(Cập)(vinh)(hoa)(chi)(vị)(lạc)(hề) Hoa tươi còn chửa lìa cành,
(Tướng)(hạ)(nữ)(chi)(khả)(di) Xem ai là gái hữu tình ta đưa.
(Ngô)(linh)(Phong)(long)(thừa)(vân)(hề) Sai thần mây đi mưa về gió,
(Cầu)(Phục)(phi)[19](chi)(sở)(tại) Cung Phục Phi[19] tìm rõ tới nơi.
(Giải)(bội)(tương)()(kết)(ngôn)(hề) Mối may ta lại cậy người,
(Ngô)(linh)(Kiến)(Tu)()(vi)() Cởi dây đeo để ngỏ lời giao đoan.
(Phân)(tổng)(tổng)(kỳ)(ly)(hợp)(hề) Trải mấy độ qua ngàn vượt núi,
(Hốt)()(hoạch)(kỳ)(nan)(thiên) Bỗng dọc ngang đường lối khó thông.
(Tịch)(quy)(thứ)(ư)(Cùng)(thạch)(hề) Chiều hôm về nghỉ non Cùng,
(Triêu)(trạc)(phát)(hồ)()(bàn) Sớm ra gội tóc trên sông Vị Bàn.
(Bảo)(quyết)(mỹ)()(kiêu)(ngạo)(hề) Nàng cậy đẹp khinh nhờn quen thói,
(Nhật)(khang)(ngu)()(dâm)(du) Quên tháng ngày, mê mải dong chơi.
(Tuy)(tín)(mỹ)(nhi)()(lễ)(hề) Đẹp nhưng mất nết xin thôi,
(Lai)(vi)(khí)(nhi)(cải)(đầu) Bỏ tìm chốn khác lấy người đoan trang.
(Lãm)(tướng)(quan)(ư)(tứ)(cực)(hề) Vùng trời rộng bốn phương man mác,
(Chu)(lưu)(hồ)(thiên)(dữ)(nãi)(hạ) Xem khắp rồi lại bước xuống đời.
(Vọng)(Dao)(đài)(chi)(yển)(kiển)(hề) Hữu nhung trông với cõi ngoài,
(Kiến)(Hữu)(nhung)(chi)(dật)(nữ) Long lanh đền ngọc thấy người gái xinh.
(Ngô)(linh)(Trấm)(vi)(môi)(hề) Mượn chim trấm mối manh nói hộ,
(Trấm)(cáo)()()(bất)(hảo) Trấm trả lời: "Việc đó không xuôi!"
(Hùng)(cưu)(chi)(minh)(thệ)(hề) Kìa chim tu hú dại đời,
()(do)()(kỳ)(điêu)(xảo) Ta còn ghét nó là loài tinh ranh.
(Tâm)(do)(dự)(nhi)(hồ)(nghi)(hề) Mình khuây khỏa lấy mình chẳng nối,
(Dục)(tự)(thích)(nhi)(bất)(khả) Lòng hồ nghi trăm mối vấn vương.
(Phượng)(hoàng)()(thụ)(di)(hề) Chịu lời ta đã phượng hoàng,
(Khủng)(Cao)(Tân)(chi)(tiên)(ngã) Chỉ e ta đến sau chàng Cao Tân.
(Dục)(viễn)(tập)(nhi)()(sở)(chỉ)(hề) Xa tìm chốn yên thân chẳng có,
(Liêu)(phù)(du)()(tiêu)(diêu) Đành lênh đênh đây đó biết sao!
(Cập)(Thiếu)(Khang)(chi)(vị)(gia)(hề) Thiếu Khang đang lúc ba đào,
(Lưu)(Hữu)(Ngu)(chi)(nhị)(diêu) Họ Kiều hai gái sánh vào vừa xinh.
()(nhược)(nhi)(môi)(chuyết)(hề) Lý đã kém mối manh lại vụng,
(Khủng)(đạo)(ngôn)(chi)(bất)(cố) Chỗ hẹn lời e cũng không bền.
(Thế)(hỗn)(trọc)(nhi)(tật)(hiền)(hề) Người đời bẩn tưởi nhỏ nhen,
(Hiếu)(tế)(mỹ)(nhi)(xưng)(ác) Chuộng bên gian ác, ghét bên hiền tài.
(Khuê)(trung)()()(thúy)(viễn)(hề) Buồng the đã là nơi cách trở,
(Triết)(vương)(hựu)(bất)(ngộ) Nhà vua còn đang cữ mê say.
(Hoài)(trấm)(tình)(nhi)(bất)(phát)(hề) Ôm lòng biết ngỏ ai hay,
()(yên)(năng)(nhẫn)(dữ)(thử)(chung) Bước đời nhịn mãi nước này được sao.
(Sách)(quỳnh)(mao)[20]()(đình)篿(chuyên)(hề) Chẻ nắm quẻ Quỳnh-mao[20] làm thẻ
(Mệnh)(Linh)(Phân)(vị)()(chiêm)(chi) Mượn Linh-phân gieo quẻ nhân duyên.
(Viết)(lưỡng)(mỹ)(kỳ)(tất)(hợp)(hề) Quẻ rằng: "Ao ước thì nên,
(Thục)(tín)(tu)(nhi)(mộ)(chi) Bên tài bên sắc đôi bên cùng lòng.
()(cửu)(châu)[21](chi)(bác)(đại)(hề) Nghĩ chín cõi[21] mênh mông rộng rãi,
(Khởi)(duy)(thị)(kỳ)(hữu)(nữ) Phải riêng đây có gái kén chồng?
(Viết)(miễn)(viễn)(thệ)(nhi)()(hồ)(nghi)(hề) Đường xa xin chớ ngại ngùng,
(Thục)(cầu)(mỹ)(nhi)(thích)(nhữ) Người xinh ai chẳng đem lòng khát khao?
()(sở)(độc)()(phương)(thảo)(hề) Cỏ thơm kể nơi nào chẳng có,
(Nhĩ)()(hoài)(hồ)(cố)() Thương tiếc chi quê cũ nữa anh!
(Thế)(u)(muội)()(huyễn)(diệu)(hề) Quáng lòa bao kẻ chung quanh,
(Thục)(vân)(sát)()(chi)(thiện)(ác) Dở hay ai xét cho mình nữa đâu!
(Dân)(hiếu)()(kỳ)(bất)(đồng)(hề) Lòng yêu ghét khác nhau biết mấy!
(Duy)(thử)(đảng)(nhân)(kỳ)(độc)(dị) Bọn chúng coi thật thấy lạ đời.
(Hộ)(phục)(ngải)()(doanh)(yêu)(hề) Cỏ hôi đeo dắt đầy người,
(Vị)(u)(lan)(kỳ)(bất)(khả)(bội) Hoa lan thơm ngát chê bai chẳng dùng.
(Lâm)(sát)(thảo)(mộc)(kỳ)(do)(vị)(đắc)(hề) Loài cây cỏ còn không phân biệt,
(Khởi)(trình)(mỹ)(chi)(năng)(đương) Giống ngọc lành xét biết đâu mà!
(Tổ)(phần)(nhưỡng)()(sung)(vi)(hề) Phân tro xếp đống đầy nhà,
(Vị)(thân)(tiêu)(kỳ)(bất)(phương) Cánh hồi cánh quế chê là không thơm"
(Dục)(tòng)(Linh)(phân)(chi)(cát)(chiêm)(hề) Quẻ dạy thế, ở làm chi nữa!
(Tâm)(do)(dự)(nhi)(hồ)(nghi) Nhưng lòng còn lưỡng lự chưa đi.
(Vu)(Hàm)(tương)(tịch)(giáng)(hề) Chiều nay sắp đặt lễ nghi,
(Hoài)(tiêu)(sở)(nhi)(yêu)(chi) Mời Vu Hàm lại ta thì hỏi han.
(Bách)(thần)(ế)(kỳ)(bị)(giáng)(hề) Chín dãy núi chập chờn đón rước,
(Cửu)(nghi)(bân)(kỳ)(tịnh)(nghênh) Trăm vị thần chững chạc tới nơi.
(Hoàng)(diễm)(diễm)(kỳ)(dương)(linh)(hề) Hào quang rực rỡ đầy trời,
(Cáo)()()(cát)(cố) Vì ta dạy hết mọi lời thủy chung.
(Viết)(Miễn)(thăng)(giáng)(nhi)(thượng)(hạ)(hề) Rằng: "Lên xuống cố công tìm hỏi,
(Cầu)(củ)(hoạch)(chi)(sở)(đồng) Ai cùng mình khuôn lối như in.
(Thang)()[22](nghiêm)(nhi)(cầu)(hợp)(hề) Vũ, Thang[22] kén lựa tôi hiền,
(Chí)(Cao)(Dao)[23](nhi)(năng)調(điều) Chí Cao Dao[23] được chúng tin yêu vì.
(Cẩu)(trung)(tình)(kỳ)(hiếu)(tu)(hề) Quả là đẹp cứ gì tốt mối!
(Hựu)()(tất)(dụng)(phù)(hành)(môi) Giá ngọc lành há phải bán rong!
(Duyệt)(thao)(trúc)(ư)(Phó)(Nham)[24](hề) Duyệt[24] xưa đắp đất ngoài đồng,
()(Đinh)[25](dụng)(nhi)(bất)(nghi) Vũ Đinh[25] tìm gặp tin dùng chẳng nghi.
()(Vọng)[26](chi)(cổ)(đao)(hề) Lã Vọng[26] trước làm nghề bán thịt,
(Tao)(Chu)(Văn)(nhi)(đắc)(cử) Gặp Văn Vương mới biết tướng tài.
(Ninh)(Thích)[27](chi)(âu)(ca)(hề) Chăn trâu Ninh Thích[27] hát chơi,
(Tề)(Hoàn)(văn)()(cai)(phụ) Tề Hoàn nghe đã cho vời làm quan.
(Cập)(niên)(tuế)(chi)(vị)(án)(hề) Tuổi chưa muộn lo toan còn kịp,
(Thì)(diệc)(do)(kỳ)(vị)(ương) Thời đang vừa thu xếp đi cho!
(Khủng)(đề)(quyết)(chi)(tiên)(minh)(hề) Véo von đề quyết gọi thu,
使(Sử)(phù)(bách)(thảo)(vị)(chi)(bất)(phương) Trăng hoa e lúc thơm tho chẳng còn!
()(quỳnh)(hội)(chi)(yển)(kiển)(hề) Vòng hoa quỳnh đẹp giòn biết mấy,
(Chúng)(ái)(nhiên)(nhi)(tế)(chi) Che lấp đi ai biết vẻ xinh!
(Duy)(thủ)(đảng)(nhân)(chi)(bất)(lượng)(hề) Ghét ghen chúng chẳng thương tình,
(Khủng)(tật)(đố)(nhi)(chiết)(chi) E khi giập gãy tan tành biết đâu."
(Thì)(bân)(phân)(kỳ)(biến)(dịch)(hề) Trách thời tiết thật mau thay đổi,
(Hựu)()(khả)()(yêm)(lưu) Nào lữa lần được mãi cho cam.
(Lan)(chỉ)(biến)(nhi)(bất)(phương)(hề) Hoa lan giờ đã hết thơm,
(Thuyên)(huệ)(hóa)(nhi)(vi)(mao) Hoa lài hoa huệ hóa làm cỏ tranh...
()(tích)(nhật)(chi)(phương)(thảo)(hề) Bao nhiêu giống hương thanh sắc đẹp,
(Kim)(trực)(vi)(thử)(tiêu)(ngải)() Đều dốc đời đổi kiếp hôi tanh.
(Khởi)(kỳ)(hữu)(tha)(cố)(hề) Không năng chải chuốt làm xinh,
(Mạc)(hiếu)(tu)(chi)(hại)() Tại ai đâu, chỉ tại mình đấy thôi.
(Dự)()()(lan)[28](vi)(khả)(thị)(hề) Lan[28] ta tưởng đáng nơi tin cậy,
(Khương)()(thực)(nhi)(dung)(trường) Có ngờ đâu bóng bẩy mà hư.
(Uỷ)(quyết)(mỹ)()(tòng)(tục)(hề) Theo đời bỏ vẻ đẹp xưa,
(Cẩu)(đắc)(liệt)(hồ)(chúng)(phương) Đua đòi cẩu thả cũng như mọi loài.
(Tiêu)[29](chuyên)(nịnh)()(mạn)(thao)(hề) Tiêu[29] bợ đỡ nịnh đời ra mặt,
(Sát)(hựu)(dục)(sung)(phù)(bội)(vi) Túi thuốc trừ nhét chặt thù du.
()(can)(tiến)(nhi)(vụ)(nhập)(hề) Đem thân cầu cạnh bôn xu,
(Hựu)()(phương)(chi)(năng)(chi) Còn đâu giữ được thơm tho tính trời.
(Cố)(thì)(tục)(chi)(lưu)(tòng)(hề) Thói thường vốn theo thời thay đổi,
(Hựu)(thục)(năng)()(biến)(hóa) Ai giữ mình cho khỏi suy di!
(Lãm)(tiêu)(lan)(kỳ)(nhược)()(hề) Tiêu Lan còn chả ra gì,
(Hựu)(huống)(yết)(xa)(dữ)(giang)(ly) Trách chi đến sói, kể chi đến nhài!
(Duy)()(bội)(chi)(khả)(quý)(hề) Riêng hoa quỳnh thật loài đáng quý,
(Uỷ)(quyết)(mỹ)(nhi)(lịch)(ti) Tới nay còn giữ vẻ năm xưa.
(Phương)(phi)(phi)(nhi)(nan)(khuy)(hề) Hương còn thoang thoảng xa đưa,
(Phân)(chí)(kim)(do)(vị)(muội) Đẹp còn nguyên vẹn vẫn như ngày nào.
(Hòa)調(điệu)(độ)()(tự)(ngu)(hề) Tự an ủi, theo vào mực thước,
(Liêu)(phù)(du)(nhi)(cầu)(nữ) Ngắm hoa đeo ngày trước còn xinh.
(Cập)()(sức)(chi)(phương)(tráng)(hề) Khắp vùng trời đất mông mênh,
(Chu)(lưu)(quan)(hồ)(thượng)(hạ) Tìm cho thấy bạn hữu tình mới thôi.
(Linh)(phân)(kỳ)(cáo)()()(cát)(chiêm)(hề) Linh phân dạy: "Quẻ coi tốt lắm!"
(Lịch)(cát)(nhật)(hồ)(ngô)(tương)(hàng) Chọn ngày lành ta sắm sửa đi.
(Chiết)(quỳnh)(chi)()(vi)(tu)(hề) Hoa quỳnh bẻ lấy phòng khi,
(Tinh)(quỳnh)(my)()(vi)(tương) Cành thì làm bánh, cánh thì làm cơm.
(Vị)()(giá)(phi)(long)(hề) Lộn ngà ngọc đóng làm xe cưỡi,
(Tạp)(dao)(tượng)()(vi)(xa) Kéo xe ta phất phới rồng bay.
()(ly)(tâm)(chi)(khả)(đồng)(hề) Đi cho vắng mặt khuất mày,
(Ngô)(tương)(viễn)(thệ)()(tự)() Lòng lìa, thế bắt thân này phải xa!
(Triển)(ngô)(đạo)(phù)(Côn)(Luân)(hề) Đường thăm thẳm trông ra quanh quất
(Lộ)(tu)(viễn)()(chu)(lưu) Hãy vòng xe qua đất Côn Luân.
(Dương)(vân)(nghê)(chi)(yếm)(ái)(hề) Vang vang nhạc ngọc thét dồn,
(Minh)(ngọc)(loan)(chi)(thu)(thu) Mây màu lấp lánh vây tròn trước sau.
(Triêu)(phát)(nhẫn)(ư)(Thiên)(tân)(hề) Sớm bên trời bắt đầu rong ruổi,
(Tịch)()(chí)(hồ)西(Tây)(cực) Chiều hôm ta tới cõi cực tây.
(Phượng)(hoàng)(dực)(kỳ)(thừa)(kỳ)(hề) Trước xe đón ngựa cờ bay,
(Cao)(cao)(tường)(chi)(dực)(dực) Phượng hoàng vỗ cánh tung mây tuyệt vời.
(Hốt)(ngô)(hành)(thử)(Lưu)(sa)[30](hề) Chốc ta lại qua chơi bể Cát,[30]
(Tuân)(Xích)(thủy)(nhi)(dung)(dữ) Theo dòng sông bát ngát đỏ ngầu.
(Huy)(giao)(long)使(sử)(lương)(tân)(hề) Thuồng thuồng sửa bến cho mau!
(Chiếu)西(Tây)(hoàng)使(sứ)(thiệp)() Bảo Tây hoàng phải bắc cầu ta sang.
(Lộ)(tu)(viễn)()(đa)(gian)(hề) Xa thăm thẳm cõi đường hiểm trở,
(Đằng)(chúng)(xa)使(sử)(kim)(đãi) Dồn các xe giúp đỡ ta cùng.
(Lộ)(Bất)(Chu)[31]()(tả)(chuyên)(hề) Bất Chu[31] lối tả đi vòng,
(Chí)西(Tây)(hải)()(vi)(kỳ) Hẹn ngày tháng chỉ qua vùng biển tây.
(Đồn)()(xa)(kỳ)(thiên)(thặng)(hề) Đều tay sắp giật dây cương ngọc,
(Tề)(ngọc)(đại)(nhi)(tịnh)(trì) Nghìn xe cùng một lúc ra đi.
(Giá)(bát)(long)(chi)(uyển)(uyển)(hề) Tám rồng bay lộn trước xe,
(Tái)(vân)(kỳ)(chi)(ủy)(đà) Cờ bay phất phới bóng che rợp trời.
(Úc)(chí)(nhi)(nhĩ)(tiết)(hề) Hãy ngừng bước, tạm nguôi dạ tủi,
(Thần)(cao)(trì)(nhi)(mạc)(mạc) Buông thần hồn lên cõi cao xa.
(Tấu)(Cửu)(ca)[32](nhi)()(thiều)[33](hề) Múa Thiều[33] hát khúc Cửu ca,[32]
(Liêu)(hạ)(nhật)()(du)(lạc) Tháng ngày thong thả liệu mà làm khuây.
(Trắc)(thăng)(hoàng)(chi)(hách)()(hề) Cất mình khoảng trời mây rộng rãi,
(Hốt)(lâm)(nghễ)(phù)(cựu)(hương) Chợt ngoảnh đầu trông lại quê hương.
(Bộc)(phu)(bi)()()(hoài)(hề) Ngựa buồn, đầy tớ thảm thương,
(Quyền)(cục)(cố)(nhi)(bất)(hàng) Co ro nhớn nhác, ngại đường chẳng đi.
(Loạn)(viết)()()(tai) Vãn rằng:
(Quốc)()(nhân)(mạc)(ngã)(tri)(hề) Thôi than tiếc làm chi cho cực!
(Hựu)()(hoài)(hồ)(cố)(đô) Biết ta đâu một nước không người.
(Kỳ)(mạc)(túc)()(vi)(mỹ)(chính) Chính lành làm sức với ai,
(Ngô)(tương)(tòng)(Bành)(Hàm)(chi)(sở)() Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo.

   




Chú thích

  1. Nguyên văn tác phẩm gồm 372 câu, tuy nhiên hai câu: "Viết hoàng hôn dĩ vi kỳ hề, Khương trung đạo nhi cải lộ" bị nghi là do người đời sau thêm vào
  2. a ă Tức vua Chuyên Húc, một trong Ngũ Đế của Trung Quốc cổ đại
  3. a ă Hai câu này có nghĩa rằng Khuất Nguyên sinh vào ngày Dần, tháng Dần, năm Dần - ứng với thời đạo con người được sinh ra trong trời đất (Người Trung Quốc cổ quan niệm: trời mở ở Tý, đất thành ở Sửu, người sinh ở Dần)
  4. a ă Chính Tắc:Nêu rõ nghĩa chữ "Bình"; Linh Quân: nêu rõ nghĩa chữ "Nguyên" - tên và tự của nhà thơ
  5. a ă Tên một thứ cây có hương thơm (trong "Ly Tao", Khuất Nguyên thường dùng tên của nhiều loài cỏ cây theo lối tỉ dụ và ẩn dụ, tùy theo văn cảnh có thể hiểu dụng ý của nhà thơ)
  6. Hai câu này nghi là do người đời sau thêm vào
  7. a ă Bành Hàm: Hiền thần của nhà Ân, can vua Trụ nhưng Trụ không nghe, Bành Hàm nhảy xuống sông tự tử. Trong bài thơ này, Khuất Nguyên nhiều lần nhắc đến Bành Hàm, chứng tỏ ông rất đau khổ bế tắc và có ý cư xử theo lối của Bành Hàm
  8. a ă Về nhân vật này có nhiều cách giải thích. Quách Mạt Nhược cho rằng đây là người đàn bà đỡ đần công việc (Cụ Đào Duy Anh dịch là "bạn gái"). Có lẽ đây là người phụ tế - vì Khuất Nguyên vốn có chức trách tế tự ở tông miếu
  9. a ă Thân phụ của vua nhà Hạ. Cổn trị thủy không thành công, bị vua Thuấn giết ở núi Vũ. Khi rạch bụng Cổn, một đứa trẻ nhảy ra; vì ra đời ở núi Vũ nên được đặt tên là Vũ. Thuấn sai Vũ trị thủy, Vũ thành công, Thuấn truyền ngôi cho Vũ
  10. a ă Chỉ Ngu Thuấn, một trong Ngũ Đế của Trung Quốc cổ. Theo truyền thuyết, Thuấn là một vị thánh quân
  11. a ă Các tên: Khải, Thái Khang, Nghệ, Xác, Ngáo - đều là những nhân vật trong huyền sử Trung Quốc, có chính tích bất hảo
  12. a ă Hạ Kiệt: Vua cuối cùng của nhà Hạ, rất tàn bạo, bị nhân dân căm ghét. Thành Thang đã khởi nghĩa, diệt Kiệt, sáng lập nhà Thương
  13. a ă Tức Trụ, vua cuối cùng của nhà Thương (Ân). Trụ rất tàn ác, dâm bạo. Vương tử Tỷ Can là chú ruột của Trụ can gián, Trụ chẳng những không nghe còn mổ bụng moi tim lấy thịt Tỷ Can làm mắm. Trụ bị Vũ Vương nhà Chu tiêu diệt
  14. a ă Núi Thương Ngô tức núi Cửu Nghi, thuộc tỉnh Hồ Nam, là nơi chôn vua Thuấn
  15. a ă Ngọn núi thần trong dãy núi Côn Luân (theo truyền thuyết, núi Côn Luân là nơi cư trú đầu tiên của người Trung Quốc)
  16. a ă Theo thần thoại, Hy Hòa là người đánh xe của thần mặt trời
  17. a ă Trong thần thoại, Bạch thủy là con sông phát nguyên từ núi Côn Luân, uống nước sông ấy thì bất tử
  18. a ă Một ngọn núi trong dãy Côn Luân
  19. a ă Theo truyền thuyết, là con gái vua Phục Hy, chết đuối ở sông Lạc Thủy, thành nữ thần sông Lạc
  20. a ă Đào Duy Anh dịch là cỏ thi, là thứ cỏ quý được dùng làm thẻ để bói
  21. a ă Cửu châu: Gọi chung cả thiên hạ, vì Trung Quốc xưa chia làm chín châu: Ký, Duyên, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Ung, Lương
  22. a ă Tức Thành Thang và Hạ Vũ
  23. a ă Hiền thần của Hạ Vũ
  24. a ă Tức Phó Duyệt. Vua Cao Tông nhà Ân cầu hiền, tìm được Duyệt đang đào đắp đất ở Phó Nham, liền rước về phong làm tướng
  25. a ă Tức vua Cao Tông nhà Ân
  26. a ă Tức Khương Tử Nha (cũng gọi là Lã Thượng, Khương Thượng), khai quốc công thần của nhà Chu, được phong ở đất Lã nên cũng lấy Lã làm họ. Lã Vọng từng làm nghề mổ thịt ở Triều Ca - kinh đô nhà Ân, đến già làm nghề câu cá ở sông Vị Thủy; gặp Chu Văn Vương được trọng dụng, sau giúp Vũ Vương diệt Trụ
  27. a ă Người nước Vệ thời Xuân Thu, nhà nghèo phải đi đánh xe thuê cho người ở nước Tề. Một hôm, Tề Hoàn Công đi chơi đêm, ra cửa Đông thấy Ninh Thích vừa cho trâu ăn vừa gõ sừng trâu mà hát. Hoàn Công nghe câu hát cho là "kỳ nhân", bảo Quản Trọng rước về cho làm thượng khanh
  28. a ă Lan: Là thứ cây Khuất Nguyên yêu quý. Vương Dật cho rằng Lan ở đây ám chỉ Tử Lan, em ruột vua Sở Hoài Vương. Tử Lan làm Lệnh doãn (nước Sở gọi tướng quốc là Lệnh doãn), khuyên Hoài Vương đến hội kiến với Tần. Kết quả Hoài Vương bị Tần bắt làm con tin
  29. a ă Tiêu: Cũng là một thứ cây quý. Vương Dật cho "Tiêu" đây là ám chỉ Tử Tiêu, làm Lệnh doãn nước Sở đời Khoảnh Tương Vương. (Quách Mạt Nhược cho rằng cả Tử Lan và Tử Tiêu đều là học trò của Khuất Nguyên, từng được ông yêu quý nhưng về sau đã phản lại đường lối chống Tần của thầy)
  30. a ă Chỉ sa mạc ở phía tây Trung Quốc
  31. a ă Tên núi trong thần thoại, nguyên là cột chống trời ở góc Tây Bắc. Cung Công giành ngôi đế của Chuyên Húc, bị Chuyên Húc đánh bại, Cung Công bèn đập đầu vào cột chống trời để tự tử, cột bị đổ, thành núi Bất Chu. (Vì cột chống trời đổ, trời bị rách nên Nữ Oa phải luyện đá vá trời)
  32. a ă Theo truyền thuyết, Cửu Biện và Cửu Ca đều là nhạc của trời, Hạ Khải trộm được đem xuống nhân gian
  33. a ă Vũ thiều: Là điệu nhạc múa Cửu Thiều, tương truyền do vua Thuấn làm ra (Vì nhạc Thiều được coi là âm nhạc tiêu biểu của quốc gia, nên quốc ca cũng được gọi là quốc thiều)


 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì thời hạn bảo hộ bản quyền của nó đã hết ở Việt Nam. Nếu là tác phẩm khuyết danh, nó đã được công bố lần đầu tiên trước năm 1960. Đối với các loại tác phẩm khác, tác giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng) của nó đã mất trước năm 1974. (Theo Điều 27, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009 bắt đầu có hiệu lực từ năm 2010 và điều khoản kéo dài bản quyền đối với tác phẩm khuyết danh từ 50 thành 75 năm nhưng không hồi tố)


Ngoài ra, một tác phẩm của Việt Nam thuộc phạm vi công cộng tại Việt Nam theo quy định này cũng thuộc phạm vi công cộng tại Hoa Kỳ chỉ nếu nó thuộc phạm vi công cộng tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 12 năm 1998, tức là: tác phẩm khuyết danh đã được công bố lần đầu tiên trước năm 1948; đối với các loại tác phẩm khác, tác giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng) của nó đã mất trước năm 1948 tác phẩm chưa bao giờ được xuất bản tại Hoa Kỳ trước ngày 23 tháng 12 năm 1998. (Theo Tuyên cáo 7161 của Tổng thống Bill Clinton áp dụng Đạo luật Thỏa thuận Vòng đàm phán Uruguay (URAA) đối với các tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam)