Nê-hê-mi/7

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
(Đổi hướng từ Nê-hê-mi/Chương 7)
Nê-hê-mi của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 7

Cai số dân Y-sơ-ra-ên trở về Giu-đa với Xô-rô-ba-bên

71 Khi vách-thành đã xây xong, và tôi đã tra các cánh cửa, lập những người giữ cửa, kẻ ca-hát, và người Lê-vi trong chức việc của họ, 2 thì tôi giao phó việc cai-trị Giê-ru-sa-lem cho Ha-na-ni, em tôi, và cho Ha-na-nia, quan tể-cung; vì là một người trung-tín và kính-sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều kẻ khác. 3 Tôi dặn chúng rằng: Chớ mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời nắng-nóng; người ta phải đóng cánh cửa, và gài then lại trong lúc kẻ giữ cửa còn ở tại đó; lại phải đặt người trong dân Giê-ru-sa-lem thay phiên mà canh-giữ, mỗi người đứng canh nơi đối ngang nhà mình. 4 Vả, thành thì rộng-rãi lớn-lao, còn dân-sự ở trong nó lại ít, và nhà mới thì chưa có cất.

5 Đức Chúa Trời tôi có cảm-động lòng tôi chiêu-tập những người tước-vị, các quan-trưởng, và dân-sự, đặng đem chúng vào sổ từng gia-phổ. Tôi có tìm đặng một cuốn bộ gia-phổ của những người đã trở lên lần đầu, và trong đó tôi thấy có ghi rằng: 6 Nầy là các người tỉnh Giu-đa từ nơi làm phu-tù được trở lên, tức những kẻ thuộc trong bọn bị Nê-bu-cát-nết-sa bắt dẫn tù; chúng trở lại Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, ai nấy đều về bổn-thành mình; 7 chúng trở về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hun, và Ba-a-na.

Nầy là số tu-bộ những người nam của dân Y-sơ-ra-ên: 8 Về con-cháu Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người; 9 về con-cháu Sê-pha-tia, ba trăm bảy mươi hai người. 10 Về con-cháu A-ra, sáu trăm năm mươi hai người. 11 Về con-cháu Pha-hát-Mô-áp, con-cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai ngàn tám trăm mười tám người. 12 Về con-cháu Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. 13 Về con-cháu Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người. 14 Về con-cháu Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người. 15 Về con-cháu Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người. 16 Về con-cháu Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người. 17 Về con-cháu A-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người. 18 Về con-cháu A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người. 19 Về con-cháu Biết-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người. 20 Về con-cháu A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người. 21 Con-cháu A-te, về dòng-dõi Ê-xê-chia, có chín mươi tám người. 22 Về con-cháu Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người. 23 Về con-cháu Bết-sai, ba trăm hai mươi bốn người. 24 Về con-cháu Ha-ríp, một trăm mười hai người. 25 Về con-cháu Ga-ba-ôn, chín mươi lăm người. 26 Về những người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người. 27 Về những người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám người. 28 Về những người Bết-A-ma-vết, bốn mươi hai người. 29 Về những người Ki-ri-át-Giê-a-rim, người Kê-phi-ra, và người Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người. 30 Về những người Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người. 31 Về những người Mích-ma, một trăm hai mươi hai người. 32 Về những người Bê-tên và A-hi, một trăm hai mươi ba người. 33 Về những người Nê-bô khác, năm mươi hai người. 34 Về con-cháu Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. 35 Về con-cháu Ha-rim, ba trăm hai mươi người. 36 Về con-cháu Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người. 37 Về con-cháu của Lô-đơ, của Ha-đít, và của Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người. 38 Về con-cháu Sê-na, ba ngàn chín trăm ba mươi người.

39 Những thầy tế-lễ: Về con-cháu Giê-đa-gia, nhà Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người. 40 Về con-cháu Y-mê, một ngàn năm mươi hai người. 41 Về con-cháu Pha-su-rơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người. 42 Về con-cháu Ha-rim, một ngàn mười bảy người.

43 Người Lê-vi: Con-cháu của Giê-sua và của Cát-mi-ên, về dòng-dõi Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.

44 Người ca-hát: Về con-cháu A-sáp, một trăm bốn mươi tám người.

45 Kẻ giữ cửa: Về con-cháu Sa-lum, con-cháu A-te, con-cháu Tanh-môn, con-cháu A-cúp, con-cháu Ha-ti-ta, và con-cháu Sô-bai, một trăm ba mươi tám người.

46 Người Nê-thi-nim: Con-cháu Xi-ha, con-cháu Ha-su-pha, con-cháu Ta-ba-ốt, 47 con-cháu Kê-rốt, con-cháu Sia, con-cháu Pha-đôn, 48 con-cháu Lê-ba-na, con-cháu Ha-ga-ba, con-cháu Sanh-mai, 49 con-cháu Ha-nan, con-cháu Ghi-đên, con-cháu Ga-ha; 50 con-cháu Rê-a-gia, con-cháu Rê-xin, con-cháu Nê-cô-đa, 51 con-cháu Ga-xam, con-cháu U-xa, con-cháu Pha-sê-a, 52 con-cháu Bê-sai, con-cháu Mê-u-nim, con-cháu Nê-phi-sê-sim, 53 con-cháu Bác-búc, con-cháu Ha-cu-pha, con-cháu Ha-rua, 54 con-cháu Bát-lít, con-cháu Mê-hi-đa, con-cháu Hạt-sa, 55 con-cháu Bạt-cô, con-cháu Si-sê-ra, con-cháu Tha-mác, 56 con-cháu Nê-xia, con-cháu Ha-ti-pha.

57 Dòng-dõi các đầy-tớ của Sa-lô-môn: Con-cháu Sô-tai, con-cháu Sô-phê-rết, con-cháu Phê-ri-đa, 58 con-cháu Gia-a-la, con-cháu Đạt-côn, con-cháu Ghi-đên, 59 con-cháu Sê-pha-tia, con-cháu Hát-tinh, con-cháu Phô-kê-rết-Hát-xê-ba-im, con-cháu A-mon.

60 Tổng cộng các người Nê-thi-nim và con-cháu các đầy-tớ của Sa-lô-môn, là ba trăm chín mươi hai người.

61 Nầy là những người ở từ Tên-Mê-la, Tên-Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn, và từ Y-mê mà đi lên; nhưng chúng nó không thể chỉ ra nhà của tổ-phụ mình và gốc-gác của họ, hoặc thuộc về Y-sơ-ra-ên hay chăng: 62 con-cháu Đê-la-gia, con-cháu Tô-bi-gia, và con-cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm bốn mươi hai người. 63 Về những thầy tế-lễ: Con-cháu Ha-ba-gia, con-cháu Ha-cốt, con-cháu Bạt-xi-lai, là người lấy vợ trong vòng con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át, và được gọi bằng tên của họ. 64 Các người ấy tìm-kiếm gia-phổ mình, nhưng không thấy, bèn bị trừ ra chức tế-lễ, kể cho là ô-uế. 65 Quan tổng-trấn cấm chúng ăn những vật chí-thánh cho đến chừng có một thầy tế-lễ dấy lên dùng U-rim và Thu-mim mà cầu-hỏi Đức Chúa Trời.

66 Cả hội-chúng hiệp-lại được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 67 không kể những tôi trai tớ gái của dân, số được bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người; cũng có hai trăm bốn mươi lăm kẻ ca-hát, nam và nữ. 68 Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 69 bốn trăm ba mươi lăm con lạc-đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

70 Có mấy trưởng-tộc đem của cung-tiến đặng giúp làm công-việc. Quan tổng-trấn dâng cho kho một ngàn đa-riếc vàng, năm mươi cái chậu, và năm trăm ba mươi cái áo thầy tế-lễ. 71 Có mấy trưởng-tộc dâng vào kho tạo-tác hai vạn đa-riếc vàng, và hai ngàn hai trăm min bạc. 72 Còn vật dân-sự khác dâng, được hai vạn đa-riếc vàng, hai ngàn min bạc, và sáu mươi bảy cái áo thầy tế-lễ.

73 Ấy vậy, những thầy tế-lễ, người Lê-vi, kẻ giữ cửa, kẻ ca-hát, mấy người trong dân, và người Nê-thi-nim, cùng cả Y-sơ-ra-ên, đều ở trong các thành của mình.

Khi tháng bảy đến, thì dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong các thành của mình.