Bước tới nội dung

Nam quốc dân tu tri/XI

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG THỨ XI
N• 22.— Cần kiệm là nguồn bề nhân ái

Nhân, nghĩa là ái, ái, nghĩa là yêu. Người nên yêu nhau, mình yêu người trước. Thấy người đói rét, mình phải âu lo. Một mình ấm no, dám đâu vui vẻ. Ở trong bốn bể, ai cũng anh em. Chia áo sẻ cơm, lòng ta mới thỏa. Người no ấm cả, là hạnh phúc chung. Lên tháp đại đồng, nhờ thang bác-ái. Ta nên gắng gỏi, phải kiệm phải cần. Xưa Nã-phá-Luân, ở trong quân ngũ. Đêm không yên ngủ, sách chẳng rời tay. Kể người Thái-tây, ông là thứ nhất. Xưa Lưu-Việt-Thạch, gối đòng suốt đêm. Giấc ngủ không êm, nghe gà dậy múa. Xưa vua Hạ-Vũ, trị thủy tám năm. Một tấc quang âm, qúy hơn thước ngọc. Người ta phải học, các bậc thánh hiền. Muôn sự làm nên, chữ « cần » cốt nhất. Lại nên thêm biết, chữ « kiệm » là hay. Như ông Găng-đi, thánh hùng Ấn-độ. Ngày hai chén sữa, với hai bát cơm. Ăn thì ăn chay, mặc thì mặc vải. Tiêu dùng mọi lối, rặt của nước mình. Như ông Lý-Ninh, tài cao hơn chúng. Ăn theo lao động, mặc theo thợ thuyền. Vải mốc bánh đen, vì ai cơ khổ. Kìa hai người đó, há phải đói nghèo. Vì dốc lòng yêu, phải quên mình khổ. Việc không gì khó, cốt mình hay cần. Của không sợ bần, cốt mình hay kiệm. Cần thì không kém, kiệm thì có thừa. Lại sẵn thì giờ, ta giùm xã hội. Gánh gì chẳng nổi, việc gì chẳng xong. No chung ấm chung, vui cùng thiên hạ. Kìa Au đây Á, bình đẳng tự do. Càng nở càng to, thênh thênh bể ái. ngọn nguồn gốc suối, cần kiệm làm đầu. Ai nấy bảo nhau, khắc cần khắc kiệm.

CẦN: siêng năng. KIỆM: dành dặt. ĐẠI ĐỒNG: cả thiên-hạ như một nhà gọi là đại đồng. BÁC ÁI: rộng yêu. NÃ-PHÁ-LUÂN: vua anh hùng nước Pháp. LƯU VIỆT THẠCH: người nước Tàu, về đời nhà Tấn, gặp lúc trong nước loạn, ông có chí dẹp giặc yên dân, đêm nằm thì gối cây dòng, nghe gà gáy thì vội dậy, cầm đòng mà múa như cách ra trận. QUANG ÂM: bóng sáng, thời giờ. ẤN ĐỘ: nước ở châu Á, tức là nước Thiên-trúc. LÝ NINH: người đầu đảng cách mệnh nước Nga la-Ty. LAO-ĐỘNG: người làm lụng khó nhọc.