Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước năm 1982

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước năm 1982  (1981) 
của Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1981.

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước;

Sau khi nghe Hội đồng Bộ trưởng báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước năm 1981, nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước năm 1982;

Sau khi nghe báo cáo thẩm tra của Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội; thuyết trình của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban văn hoá và giáo dục, Uỷ ban y tế và xã hội, Uỷ ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội; và ý kiến của các đại biểu Quốc hội;

QUYẾT NGHỊ:

1- Tán thành báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1981 và nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1982.

Trong năm 1981, thực hiện các chủ trương, chính sách mới về kinh tế của Trung ương Đảng và Chính phủ, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt - Nam, nhân dân ta đã đạt được những thành tích quan trọng trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, trong công tác thu mua lương thực và các nông sản khác, trong một số ngành công nghiệp, nhất là tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Công tác quản lý kinh tế thu được một số kinh nghiệm tốt về khoán sản phẩm trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và trong xí nghiệp công nghiệp, về phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở và của các địa phương.

Nhưng nền kinh tế quốc dân còn nhiều khó khăn. Nhiều chỉ tiêu kế hoạch về sản xuất, về xuất khẩu và vận tải đạt thấp. Chủ trương cải tiến phân phối, lưu thông là cần thiết, nhưng chỉ đạo thực hiện chưa toàn diện, công tác giá cả và quản lý thị trường có nhiều khuyết điểm, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đời sống, nhất là đời sống của công nhân viên chức. Những hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội chậm được khắc phục. Việc chỉ đạo và điều hành của Hội đồng Bộ trưởng và của các cấp, các ngành có chuyển biến, song còn thiếu tập trung, đồng bộ và kịp thời.

Trong năm 1982, Nhà nước và nhân dân ta cần phát huy những kinh nghiệm và nhân tố mới, tinh thần chủ động, sáng tạo, kiên quyết khắc phục khó khăn và thiếu sót, ra sức phấn đấu để tạo chuyển biến tốt hơn nữa trong nền kinh tế quốc dân.

2- Nhiệm vụ của Kế hoạch Nhà nước năm 1982 là : Nâng cao tinh thần tự lực tự cường, sử dụng tốt sự viện trợ và hợp tác quốc tế, tập trung lực lượng phát triển mạnh nông nghiệp; mở mang các ngành nghề sản xuất hàng tiêu dùng; tăng nguồn hàng xuất khẩu; sắp xếp lại xây dựng cơ bản, phát huy năng lực sẵn có và xây dựng mới có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp nặng; tăng cường giao thông vận tải; phân bổ lại một bước lao động ở từng địa phương và giữa các vùng trong nước; làm tốt công tác phân phối, lưu thông; triệt để tiết kiệm về mọi mặt. Cả nước quyết tâm phấn đấu tự trang trải nhu cầu về ăn của toàn xã hội, cố gắng bảo đảm nhu cầu thiết yếu về mặc, học tập, chữa bệnh, về ở và đi lại của nhân dân; phát triển hợp lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, y tế, xã hội. Đổi mới một bước quản lý kinh tế, thực hiện ba cấp cơ bản làm kế hoạch, gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; đồng thời làm tốt nghĩa vụ quốc tế.

Trong công tác quản lý và điều hành, cần thấu suốt và cụ thể hoá phương châm "Trung ương và địa phương cùng làm", "Nhà nước và nhân dân cùng làm", khai thác mọi khả năng của đất nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3- Thông qua các chỉ tiêu chủ yếu sau đây của Kế hoạch Nhà nước năm 1982:

- Tổng sản phẩm xã hội : Tăng 4% so với năm 1981;

- Thu nhập quốc dân : Tăng 5% so với năm 1981;

- Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp : Tăng 8% so với năm 1981;

- Giá trị tổng sản lượng công nghiệp, kể cả tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp : Tăng 5% so với năm 1981;

- Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản : Tăng 5,7% so với năm 1981;

- Giá trị hàng xuất khẩu : Tăng 45% so với năm 1981

- Năng suất lao động của công nhân viên sản xuất công nghiệp quốc doanh : Tăng 5% so với năm 1981;

- Tổng sản lượng lương thực : 16 triệu tấn;

- Diện tích cây công nghiệp : 714 ngàn héc ta;

- Đàn lợn : 11 triệu con;

- Điện : 4.035 triệu KWh;

- Than sạch : 6.300 ngàn tấn;

- Xi măng : 962 ngàn tấn

- Vải, lụa : 260 triệu mét;

- Giấy : 55 ngàn tấn;

- Đường mía : 200 ngàn tấn;

- Sản lượng cá : 600 ngàn tấn;

Trong đó: cá biển : 420 ngàn tấn;

- Số học sinh phổ thông đầu năm học : 12.310 ngàn người;

- Số học sinh tuyển để đào tạo:

+ Đại học và cao đẳng : 35 ngàn người;

+ Trung học chuyên nghiệp : 47,2 ngàn người;

+ Công nhân kỹ thuật : 53,8 ngàn người;

- Tổng số giường bệnh : 199 ngàn giường.

4- Thông qua báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về nhiệm vụ tài chính Nhà nước năm 1982 và giao trách nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu thêm để trình Quốc hội xem xét và quyết định dự toán ngân sách Nhà nước năm 1982 trong kỳ họp sắp tới của Quốc hội. Trong khi chờ đợi, Hội đồng Bộ trưởng điều hành nền tài chính Nhà nước theo số thu, chi ước tính đã được báo cáo với Quốc hội, trên tinh thần ra sức khai thác các nguồn thu và triệt để tiết kiệm chi.

5- Quốc hội kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước nêu cao lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Cam Pu Chia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, phát huy những thành tựu và tiến bộ, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1982, tiến lên hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ ba 1981 - 1985.


Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 2, thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1981.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".