Bước tới nội dung

Nghị quyết số 05 NQ/HĐNN7

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nghị quyết số 05 NQ/HĐNN7 về đặc xá nhân dịp Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1981  (1981) 
của Hội đồng Nhà nước Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 28 tháng 8 năm 1981.

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Căn cứ vào kết quả của chính sách giáo dục và cải tạo của Nhà nước đối với phạm nhân;

Nhân dịp lễ Quốc khánh ngày 2 tháng 9 năm 1981;

Theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng;

QUYẾT NGHỊ:

1. Tha cho những phạm nhân có án tù đã cải tạo tốt theo các điều kiện sau đây:

a) Về thái độ cải tạo

- Thành thật ăn năn hối lỗi, quyết tâm cải tạo để trở thành người lương thiện;

- Nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ, nội quy của trại giam;

- Tích cực lao động, tích cực học tập, có tác dụng thúc đẩy các phạm nhân khác cải tạo và tiến bộ.

b) Về thời hạn ở tù

Những phạm nhân có án tù thì đã ở tù ít nhất được 2/5 mức án, nếu bị án tù chung thân thì đã ở tù ít nhất được 10 năm.

2. Giảm hạn tù cho những phạm nhân có án tù đã thật thà cố gắng sửa chữa theo các điều kiện nói ở Điều 1, điểm a, trên đây và đã ở tù ít nhất được 1/6 mức án; nếu bị án tù chung thân thì đã ở tù ít nhất được 4 năm.

3. Khi xét tha có thể châm chước về thời gian ở tù đối với những phạm nhân có án tù đã lập công trong thời gian ở trại; bản thân là thương binh, bệnh binh hoặc có công với cách mạng; già yếu, bệnh tật hoặc gia đình gặp nhiều khó khăn trong đời sống; có người ruột thịt trong gia đình là liệt sĩ hoặc đã lập thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất và chiến đấu; gia đình tích cực, gương mẫu chấp hành các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.

4. Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục xét tha những người được tập trung cải tạo đã thật sự tiến bộ trong thời gian cải tạo.

5. Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".