Nghị quyết số 213 NQ/TVQH

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nghị quyết số 213 NQ/TVQH về ổn định mức thuế nông nghiệp trong ba năm 1963, 1964, 1965  (1963) 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1963 và hết hiệu lực ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,

Sau khi nghe Hội đồng Chính phủ trình bày về chủ trương ổn định nghĩa vụ thuế nông nghiệp trong ba năm: 1963, 1964, 1965.

Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ,

QUYẾT ĐỊNH:

1/ Từ nay đến hết năm 1965, tiếp tục căn cứ vào sản lượng thường niên tính thuế đã ổn định năm 1958 để tính thuế nông nghiệp.

2/ Từ nay đến hết năm 1965, tiếp tục tính thuế theo thuế suất năm 1962.

Tất cả mọi trường hợp mở rộng sản xuất, tăng hay giảm diện tích canh tác, sản lượng, nhân khẩu nông nghiệp, đều không tính lại thuế suất.

3/ Từ nay cho đến hết năm 1965, ngoài số diện tích đã được miễn thuế cho đến năm 1963 theo như quy định của điều 4 điều lệ thuế nông nghiệp ban hành ngày 24 tháng 3 năm 1956, Nhà nước chỉ miễn thuế thêm trong hai trường hợp sau đây:

- Ruộng đất do Nhà nước lấy để làm các công trình kiến thiết cơ bản của Nhà nước, hay để làm những công trình đại và trung thuỷ nông;

- Ruộng đất do hợp tác xã lấy để làm sân phơi, nhà kho.

Ngoài hai trường hợp nói trên, nếu hợp tác xã và nông dân cá thể thay đổi cách sử dụng ruộng đất nhằm chuyển hướng kinh doanh tăng vụ, thâm canh tăng năng suất, tăng thu nhập v.v... Thì dù số ruộng đất canh tác có tăng hay giảm, Nhà nước cũng không thay đổi diện tích tính thuế.

4/ Ổn định mức thuế nông nghiệp phải nộp bằng lương thực từ nay cho đến hết năm 1965.

Nguyên tắc để tính mức thuế nông nghiệp phải nộp bằng lương thực vẫn theo nguyên tắc đã quy định trong Điều 29 của điều lệ thuế nông nghiệp ban hành ngày 24 tháng 3 năm 1956.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".