Bước tới nội dung

Nghị quyết số 763 NQ/TVQH

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nghị quyết số 763 NQ/TVQH về việc bổ nhiệm Đại sứ Việt Nam dân chủ Cộng hòa tại một số nước  (1969) 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 9 tháng 7 năm 1969.

Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Điều 31 của Luật tổ chức Quốc hội,

Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ,

QUYẾT NGHỊ:

Bổ nhiệm:

- Đồng chí Lê Trang làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại nước Cộng hoà Nhân dân Ba Lan, thay đồng chí Đỗ Phát Quang về nước nhận công tác khác;

- Đồng chí Nguyễn Hữu Ngô làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, thay đồng chí Phan Văn Sử về nước nhận công tác khác;

- Đồng chí Nguyễn Đăng Hành làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani, thay đồng chí Hoàng Tú về nước nhận công tác khác;

- Đồng chí Nguyễn Xuân làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Vương quốc Campuchia, thay đồng chí Nguyễn Thương về nước nhận công tác khác;

- Đồng chí Trần Văn Sớ làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ảrập thống nhất, thay đồng chí Nguyễn Xuân;

- Đồng chí Nguyễn Đức Thiệng làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Angiêri Dân chủ và Nhân dân, thay đồng chí Nguyễn Văn Phát về nước nhận công tác khác;

- Đồng chí Vũ Hắc Bồng làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ghinê, thay đồng chí Nguyễn Đức Thiệng;

- Đồng chí Lê Thanh Tâm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa thống nhất Tandania;

- Đồng chí Nguyễn Thành Vân làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Cônggô (Bradavin) thay đồng chí Nguyễn Đức Thiệng lâu nay kiêm nhiệm.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".