Như Tây nhựt trình

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Như Tây nhựt trình  (1889) 
của Trương Minh Ký

Tác phẩm thuật lại chuyến đi sang Pháp của Trương Minh Ký năm 1880.


NHƯ TÂY NHỰT TRÌNH


DE SAIGON A PARIS


PAR


TRƯƠNG-MINH-KÝ


Ouvrage subventionné par le Conseil
colonial de la Cochinchine française en sa séance
du 15 décembre 1888.



SAIGON

IMPRIMERIE REY & CURIOL


1889

Le Gouverneur de la Cochinchine française, Officier de la Légion d’honneur et de l’Instruction publique;

Vu les prévisions budgétaires de l’exercice 1880, comprenant au chapitre 6, article 1er des bourses dans les établissements d’enseignement de la Métropole et de l’Algérie;

Vu le nombre d’élèves présenté par M. le Directeur de l’Enseignement, comme étant à même de suivre avec fruit les cours du Lycée d’Alger;

Sur la proposition du Directeur de l’Intérieur,

Décide:

Article 1er. — Sept bourses au Lycée d’Alger sont accordées aux Annamites, ci-après dénommés:

Diệp-văn-Cương,
Lê-văn-Hộ,
Nguyễn-văn-Huờn,
Nguyễn-văn-Sỏi,
Lê-văn-Võ,
Lê-văn-Vắp
et Ngọc Joseph, actuellement à Marseille.

Art. 2. — Les six élèves du collège Chasseloup-Laubat prendront passage sur le transport le Tarn, à la table des maîtres.

Art. 3. — Les frais occasionnés par le voyage, l’habillement et l’entretien de ces élèves, seront prélevés sur le crédit prévu au chapitre 6, article 1er du budget local de 1880.

Art. 4. — Ils seront placés sous la surveillance de M. Trương-minh-Ký, professeur de 1re classe, qui les accompagnera jusqu’à Alger. Ce professeur recevra à cet effet un supplément de deux cents francs par mois pendant son séjour en France, qui pourra, à son gré, être prolongé jusqu’au départ du transport du 20 juillet.

Art. 5. — Le Directeur de l’Intérieur est chargé de l’exécution de la présente décision.

Saigon, le 11 mars 1880.
Le Myre de Vilers.
Par le Gouverneur:
Le Directeur de l’Intérieur p. i.,
Nouet

Le Gouverneur de la Cochinchine française, Officier de la Légion d’honneur et de l’Instruction publique,

Vu les prévisions budgétaires de l’exercice 1880, comprenant au chapitre 6, article 1er, des bourses dans les établissements d’enseignement de la Métropole et de l’Algérie;

Vu la demamde présentée par le Đốc-phủ-sứ Trần-bá-Lộc dans le but d’obtenir trois bourses au Lycée d’Alger en faveur de trois de ses neveux;

Sur la proposition du Directeur de l’Intérieur,

Décide:

Article 1er. — Trois bourses au Lycée d’Alger sont accordées aux Annamites ci-après dénommés:

Trần-bá-Hy,
Huỳnh-văn-Nghệ,
et Nguyễn-văn-Cần.

Art. 2. — Ces trois boursiers prendront passage sur le transport le Tarn à la table des maîtres.

Art. 3. — Les frais occasionnés par le voyage, l’habillement et l’entretien de ces élèves seront prélevés sur le crédit prévu au chapitre 6, article 1er de l’exercice 1880.

Art. 4. — Le Directeur de l’Intérieur est chargé de l’exécution de la présente décision.

Saigon, le 15 mars 1880.
Le Myre de Vilers.
Par le Gouverneur:
Le Directeur de l’Intérieur p. i.,
Nouet.

Conformément à la décision du Gouverneur en date de ce jour,

Un passage à la deuxième table sur le transport le Tarn partant de Saigon le 20 mars 1880, est accordé à M. Trương-minh-Ký, professeur au collège Chasseloup-Laubat, (accompagne des élèves au Lycée d’Alger).

Les frais de ce passage seront à la charge du budget local.

Saigon, le 15 mars 1880.
Le Directeur de l’Intérieur p. i.,
Nouet.

Le Gouverneur de la Cochinchine française, Officier de la Légion d’honneur et de l’Instruction publique,

Vu les prévisions budgétaires de l’exercice 1880, comprenant au chapitre 6, article 1er, des bourses dans les Etablissements d’enseignement de la Métropole et de l’Algérie;

Vu la demande présentée par le nommé Đinh-sơn-Lý, interprète de 1re classe, dans le but d’obtenir une bourse au Lycée d’Alger en faveur de son frère Đinh-sơn-Thi:

Sur la proposition du Directeur de l’Intérieur,

Décide:

Article 1er. — Une bourse au Lycée d’Alger est accordée au nommé Đinh-sơn-Thi.

Art. 2. — Ce boursier prendra passage sur le transport le Tarn à la table des maîtres.

Art. 3. — Les frais occasionnés par le voyage l’habillement et l’entretien de cet élève, seront prélevés sur le crédit prévu au chapitre 6, article 1er de l’exercice 1880.

Art. 4. — Le Directeur de l’Intérieur est chargé de l’exécution de la présente décision.

Saigon, le 17 mars 1880.
Le Myre de Vilers.
Par le Gouverneur:
Le Directeur de l’Intérieur p. i.,
Nouet.




Ngày mồng 4 septembre 1880, quan quyền Thống lý, y theo lời quan Đốc học tỏ Bày, định Trương-minh-Ký là giáo thọ hạng nhứt, đi nước Phansa về theo chiếc tàu chiến le Tonkin, bây giờ lảnh làm việc tại trường Chasseloup-Laubat như trước.

NHƯ TÂY NHỰT TRÌNH

DE SAIGON A PARIS

Từ Gia-định, xuống tàu Tarn ấy,[1] 1
Tới Alger, lên thấy thành ni.[2]
Rồi qua cho đến Paris,[3]
Thấy sao kể vậy từ đi tới về.
Tiếng quê kệch, dầu chê cũng chịu, 5
Lời thật thà miển hiểu thì thôi.
Trải xem những chuyện qua rồi,
Thì hay họa phước do nơi lòng người.
Năm Kỷ-mảo, có lời nghị định,
Đến Canh-thìn, mồng chín tháng hai.[4] 10
Vâng quan Tổng thống đặt sai,
Đem đoàn sỉ tử qua nơi Tây thành.
Đặng mà học, cho rành ngải lới,
Kẻo chưa thông, thấu tới bật cao.
Đề huề rương trắp xuống tàu, 15
Bà con đưa đón người nào cũng thương.
Cùng nhau chúc, an khương đôi chữ,
Lại lo thầm, lành dữ chưa hay
Tối rồi hai ngã phân tay,
Người về ủ mặt châu mày kẻ đi. 20
Tàu quày quạy, chậm rì chậm rịt,
Coi như tuồng, còn tiếc xứ ni.
Dòng sông quanh lộn phải tùy,
Ban đêm chẳng thấy Tam-kỳ ở đâu.
Thùy-vân tới, thấy lầu đèn vọi, 25
Trên núi cao, nên chói xa vời.
Đặng tàu các nước ở ngoài,
Tối trời nhìn biết là nơi Cần-giờ.
Ban ngày có, kéo cờ dấu hiệu,
Dầu xa xui, cũng hiểu nơi chi. 30

Sáu giờ ra khỏi Nam-kỳ,
Thấy trời với nước xanh rì khắp nơi,
Đã nước biển, nghe hơi ngầy ngật,
Lại phần tàu nghiên lắc dật dờ.
Làm cho buồn mữa ngất ngơ, 35
Chóng mày chóng mặt bắt khờ bắt ngây.
Cũng có kẻ không hay dại sóng,
Ấy như người dồi vỏng đã quen.
Nổi dông thì dại sóng liền,
Tịnh trời không thuốc cũng thuyên mới kỳ. 40
Nghỉ tàu sắt, khéo gầy khéo dựng,
Ba bốn từng, coi giống tòa lầu.
Cả trăm ngoài thước trước sau,[5]
Bề ngan mười mấy, bề sâu quá mười.
Trên bòng lái, chơi bời cũng thú, 45
Dưới phòng ăn, phòng ngủ cũng xinh.
Giữa còn sân rộng thinh thinh,
Lễ ngày chúa nhựt, điểm binh mỗi chiều.
Đã ba cột, có nhiều buồn vải,
Lại máy thêm, quạt chạy như dông. 50
Nhà thương, chỗ tắm, chỗ sông,
Đàng bà khác chỗ, đàng ông khác phòng.
Lối trước mủi, có chuồng thú vật,
Chỗ nấu ăn, lại cất cũng gần.
Nội tàu có vỏ có văn, 55
Lương y, linh mục cùng hàng bá công.
Chiều mười một, Côn-nôn trông thấy,[6]
Cảnh tự nhiên, sơn thủy xinh thay.
Chừng vài muôn thước bề dài,
Năm ngàn bề dọc, ngàn ngoài người dân. 60
Côn-nôn đảo, tội nhân đày đó,
Số năm nay, cũng có gần ngàn.
Người làm gạch, kẻ hầm than,
Lớp đi chài lưới, lớp mần rẩy khoai.
Mười giờ tối, mười hai ghé lợi, 65
Đất Malais, Phố-mới cù lao.[7]

Anglais mua đó đã lâu,[8]
Hồi vua Minh-mạng năm đầu lên ngôi.[9]
Bốn muôn thước, ngó coi dài xọc,
Được vài muôn, bề dọc rộng thinh. 70
Có gần mười vẹo dân tình,
Malabar ít, một mình Chệc đông.[10]
Thới-tây kể ước chừng ngàn chín,
Kể và quan và lính và dân.
Mỗi năm bán mấy triệu hàng, 75
Tính đồ chở tới cũng bằng chở đi.
Cữa Phố-mới, thuế chi cũng khỏi,
Ngỏ đặng nên, đô hội thương nhân.
Xưa kia ước được trăm dân,
Làm nghề chài lưới kiếm ăn qua ngày. 80
Chừ có kẻ, đông tây đủ mặt,
Lại thấy người, nam bắc đến nơi.
Cuộc đời hay đổi hay dời,
Ngày nay thương hải, ngày moi tang điền.
Rủ nhau tới, gây nên cảnh tốt, 85
Kéo ra về, lại hốt bạc qua.
Đắp đàng, mua đất, cất nhà,
Đào kinh, xây cống mở ra cữa hàng.
Phố lầu cất, vài tầng hết thảy,
Mỗi đàng xem, hai dảy ngay hàng. 90
Có làm máy nước bên đàng,
Tay đè thùng hứng nước tràng chảy ra.
Chùa Phước-kiến in chùa ông Hược,[11]
Chùa Quảng-đông thua sút chùa Bà.
Anglais có lập nhà thờ, 95
Kính vì Thượng-đế sanh ra mọi loài.
Đi dạo thấy một vài trường học,
Dạy tiếng người ngoại quốc thông thương.
Ở đây nha phiến có thường,
Gần ba trăm tiệm phô trương bên đàng. 100
Đèn khí thắp, rõ ràng sáng suốt,
Cầu sắt làm, nhắm cuộc vững bền.
Dưới sông sam-bảng chở chuyên,
Trên bờ xe ngựa chạy liền ngày đêm.

Học trò nói, bắt thèm cơm quá, 105
Bèn dắc vào, quán xá ăn chơi,
Ngồi ăn gẫm nghĩ nực cười,
Đói chi cơm bữa, no hơi bánh mì.
Gạo hồi đó, phen bì với ngọc,
Cơm lúc nầy, sánh được bằng vàng. 110
Đoái nhìn tàu đậu dăn dăn,
Tải hàng lên xuống lăn xăn rộn ràng.
Tàu tạm ghé, lấy than xong hết,
Chiều mười ba, từ biệt Hạ-châu.[12]
Lấy neo rồi chạy êm ru, 115
Thấy trời với nước một màu trong xanh.
Ba ngày trọn, theo gành theo bái,
Sumatra, còn thấy đó hoài.[13]
Nội cù lao, sáu triệu người,
Mười lăm vẹo thước bề dài thẳng băng. 120
Be vẹo thước, bề ngang ngó múc,
Hai triệu dân, hàng phục Hollande.[14]
Dọc gành thấy đá sảng hoàng,
Nếu tàu phải đó tợ dường trứng sa.
Không dông gió, khi qua ngang đó, 125
Có mưa mây, nho nhỏ mát da.
Hôm nay buồn bả nhớ nhà,
Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ bà nhớ con.
Lên bòng lái, ngó mông biển rộng,
Thấy cá bầy, bay bổng xa khơi. 130
Sáng trăng, tịnh gió, thanh trời,
Ngó coi sắc nước có ngời xinh thay.
Nước biển tắm, thường ngày mát mẻ,
Da thịt săn, mạnh khẻo tứ chi.
Tắm đêm mới thấy dị kỳ, 135
Trên mình nước chảy giống gì sáng trưng.
Tối binh bộ, làng khang nằm trống,
Còn lính tàu, ngủ vỏng ngay hàng.
Chín giờ kèn thổi kêu ăn,
Năm giờ chiều lại cũng bằng thổi luôn. 140
Mười giờ tắt, đèn chong phòng ngủ,
Có lính canh, lính giữ nghiêm trang.

Bảy ngày tàu tới Ceylan,[15]
Cù lao nầy thuộc về phần Anglais.
Ba vẹo thước theo bề dài thẳng, 145
Ba mươi lăm, muôn chẳn, bề ngang.
Nhìn xem địa thế rõ ràng,
Trái tim day cuốn lại đàng hướng nam.
Phong khí ấm, đầu năm chí cuối,
Hoa quả thường, có mỗi ngày luôn. 150
Ngọc trai bán biết mấy muôn,
Cực người lặn kiếm tại trong biển nầy.
Xinh tốt bấy! mấy tay đeo ngọc,
Thương hại thay! chúng hộc máu kia.
Nghe ra đất ấy cũng kỳ, 155
Quế thì như củi, gạo thì như châu.
May ở chỗ, các tàu thường ghé,
Cữa biển sâu, tiện thế vô ra.
Có gần hai triệu người ta,
Phần nhiều thờ phật Di-đà Thích-ca. 160
Người ngoại quấc, gần xa tứ hướng,
Có tới nơi, lập hảng bán buôn.
Người đây quừn áo như không,
Đàn bà kha khá, đàn ông sơ sài.
Khi gần tới, ở ngoài bải biển, 165
Pointe-de-galles, nhắm kiển xinh kỳ.[16]
Trên thì núi, dưới có ghe,
Chạy buồm coi giống chim sè cánh bay.
Tàu ngừng máy, ai ai cũng rộn,
Lòng vui mừng, bước xống ghe đò. 170
Một quan là giá đưa vô,
Không xa cho mấy, đều lo sợ chìm.
Ghe tum húm, ngó xem dị dạng,
Dưới chề bề, theo dáng ghe bầu.
Ván tròn, tra cán chèo lâu, 175
Ngánh làm một phía khỏi âu nghiên chiềm.
Lên chơi tối, nghỉ đêm tại quán,
Trả sáu quan, cũng đáng đồng tiền.
Giường bằng sắt, nệm lông chiên,
Mùng sa thanh lịch may liên bịch bùng, 180

Gần mé biển, gió dông đêm sáng,
Sóng ào ào, ngủ chẳng đặng yên.
Ban đêm đàng sá ít đèn,
Dưới sang sáng đất, trên đen mù trời.
Đem sỉ tử, lên chơi cho biết, 185
Dạo phố phường, khắp hết nội thành.
Coi lầu đèn vọi ngoài gành,
Mỗi trò cho kẻ ở canh năm tiền.
Súng một vị, trí trên gành ấy,
Dầu muôn binh, khôn lấy thành nầy. 190
Xuống lầu bết cẳng con trai,
Vào nhà thờ đó nghỉ ngơi một hồi.
Trở về quán, gần nơi bải biển,
Uống bière, nói chuyện nọ kia.[17]
Thấy đem tới bán đồ kỳ, 195
Hộp bằng lông nhiếm, voi thì bằng mun.
Đồ nhỏ nhỏ, lạ lùng hiếm hiếm,
Kiểu to to, tùng tiệm đồ mên.
Ham chơi đồ lạ tốn tiền,
Vì lòng cắt cớ thấy liền muốn mua. 200
Bước lại bến, đò đưa lộn xuống,
Ra tới tàu, rồi muốn trở lên.
Kế tàu quày chạy đi liền,
Giả từ Thiên-trước, chạy liên đêm ngày.
Một giờ chạy, gần hai muôn thước, 205
Bấy lâu đi, đều được bình an.
Trời xanh kệch, biển lặn trang,
Xa trông cá nược ước bằng cá bông.
Thầy trò được, vui lòng đẹp mắt,
Hình dạng xem, nở mặt mở mày. 210
Chim đâu bay tới tàu nầy,
Kẻ kêu chim biển, người thời chim diên.
Ngó lên thấy, mình tuyền sắc trắng,
Bắt xuống coi, mỏ cẳng đều đen.
Lính tàu dọn dẹp liền liền, 215
Ghế bàn lau bụi, ván phên rửa bùn.
Mỗi ngày thấy bỏ thùng múc nước,
Cân thử coi dụng được hay không.

Quanh tàu nước biển mặn nồng,
Múc lên đặt lại uống còn hơi tanh. 220
Để rửa mặt, lau mình cũng khá,
Ở bực trên, nước đá uống thường.
Đi thôi qua chín ngày đường,
Aden mới thấy phố phường tàu ghe.[18]
Năm Mậu-tuất, Anglais choán đó, 225
Địa thế gồm, biển đỏ trong tay.
Mắt xem thấy cảnh tốt thay!
Dưới thì biển rộng, trên đầy núi cao.
Phía tây có, vũng tàu rộng rải,
Chỗ cữa vào, thì lại hẹp hòi. 230
Dể bề giữ, tiện thế coi,
Trời cho được nước, đất bồi bổ thêm
Nước trên núi, dẩn đem chảy xuống,
Chứa để dành, mà uống nội thành.
Năm đầu dân có ba nghìn, 235
Bây giờ kể hết dân tình ba muôn.
Hàng buôn bán, trầm-hương, tô-hạp,
Với Café, bạch-lạp, mủ cây.[19]
Đất khô khan, cát dẩy đầy,
Bốn năm khi có mưa đây vài lần. 240
Nóng nực quá, chưa tầng khó chịu,
Tứ hướng không chúc xỉu gió dông.
Dân nầy thờ lửa hết lòng,
Dầu nhà có cháy cũng không mở lời.
Sớm lạy rước mặt trời tỏ rạng, 145
Đến buổi chiều, gần lặn lạy đưa.
Tuồng ưa nắng, bộ ghét mưa,
Chết rồi phơi nữa mới vừa bụng cho.
Đó rồi chạy, thẳng vô biển đỏ,
Có hoa tiêu chỉ chỗ cạn sâu. 250
Biển xanh kêu đỏ vì đâu,
Vì chưng dưới đáy, cát màu đỏ gay.
Có kẻ nói, tại đây thuở trước,
Hơi phèn lên mặt nước đỏ au.
Nhiều nơi cạn, ít chỗ sâu, 255
Nên e sóng gió, chạy mau cho rồi.

Hai triệu thước bề dài biển ấy,
Còn bề ngang chừng mấy vẹo thôi.
Tháng ba mồng sáu tới nơi,[20]
Suez đậu lại nghỉ ngơi vài giờ.[21] 260
Lên chịu thuế rồi vô kinh đó,
Lệ một người, thâu có mười quan.
Còn tàu thì tính theo cân,
Nghĩa là một tạ lấy gần một quan.
Trên mặt nước bề ngang trăm thước, 265
Dưới đáy kinh, cũng được hai mươi
Một trăm sáu vạn bề dài,
Nước sâu tám thước cứ hoài mực ni.
De Lesseps, chiêu qui lập hảng,[22]
Hùn bạc tiền, khai đặng kinh nầy. 270
Đào ngang biển cát khó thay,
Sâu hơn chín thước mới bày bùn ra.
Năm trăm triệu ấy là sở tổn,
Công việc làm, tính trọn mười năm.
Kỷ-mùi mới khởi sự làm, 275
Qua năm Kỷ-tị, nước đam vô rồi.
Ba muôn sáu ngàn người làm việc,
Máy móc thôi, chẳng biết bao nhiêu.
Hai bên xây đá cũng đều,
Thân trên dây thép dăn theo dọc bờ. 280
Xa xa có phần hờ canh giữ,
Ngày ngày hằng, tu bổ dưới trên.
Tàu qua dây thép thông tin,
Chiếc ngừng chỗ rộng, chiếc liền chạy qua.
Một giờ chạy, định là muôn thước, 185
Ở trong kinh không được chạy mau.
Vắng hoe trước, quạnh quẻ sau,
Trên bờ đỏ đỏ, dưới màu xanh xanh.
Hai bên kinh, thấy tinh động cát,
Bốn phía đồng vắng bặc cỏ cây. 290
Biển hồ Mặn-đắng tới đây,
Không dè nước đó đắng cay bao giờ.
Ai thuở trước, cũng ngờ nước ngọt,
Nếm mới hay, nước trót mặn nồng.

Quanh hồ tinh những cát không, 295
Vào kinh lại thấy cũng đồng như đây.
Tới hồ khác, nước đầy linh láng,
Gió hiu hiu, sóng dợn nhăng nhăng.
Qua kinh hơn một ngày đàn,
Trưa thường nóng nực, tối hằng lạnh queo. 300
Port-Saïd, tới deo neo đậu,[23]
Trời sương sa lạnh thấu tim đen.
Người tây chịu lạnh đã quen,
Mà còn phát rét run en lọ là.
Lấy đồ nỉ, đem ra mà mặc, 305
Khăn bịch trùm, còn bắt lạnh run.
Nơi nóng dữ, chỗ lạnh hung,
Dầu hung dầu dữ, phải tùng phép sao!
Lúc khỉ sự, mà đào kinh đó,
Ngoài biển nầy, không có đá hàng. 310
Phải xây cản sóng cho an,
Mà đây không đá, phải toan thế nào.
Lấy vôi cát, trộn vào từ khối,
Kể tạ ra, cho tới hai trăm,
Hai ngàn khối, mỗi ngày làm, 315
Để phơi hai tháng rồi đam xuống tàu.
Chở tới chỗ, kéo nhào xuống biển,
Ấy là đồ, ném liện làm chưng.
Còn trên xây thể vách tường,
Sóng ào vô đánh, chống đương vững vàng. 320
Sóng sụt sụt, bủa ngang qua cữa.
Kêu ồ ồ ngã ngữa ra xa.
Thôi bảo chướng, hết phong ba,
Tánh coi êm ái, nết ra dịu dàng.
Phía tây hàng, hai ngàn rưỡi thước, 325
Còn phía đông, cũng được ngàn ngoài.
Kinh nầy đời trước có khai,
Hao mười hai vạn con người mới thôi.
Khi tàu đậu, thì trời đã tối,
Mà ghe đò, cũng vội chèo ra. 330
Trên bờ đèn khí sáng lòa,
Cảnh coi đẹp mắt, đờn hoà êm tai.

Đến xứ lạ, dầu ai cũng rứa,
Lên chơi bời một bữa rồi lui.
Nghỉ thì sự, bỡi ai xui, 335
Xem phong tục lạ, biết mùi thế gian.
Vào nhà quán, bạc vàng tốn phải,
Nghe bắt mê, con gái tây đờn!
Má đào mày liểu môi son,
Hình dung yểu điệu, tay chơn dịu dàng. 340
Giữa quán rộng, để bàn đải rượu,
Những kẻ quen, ngồi tựu với nhau.
Đờn chơi một bản lâu lâu,
Có con hát xuống bước vào chỗ coi.
Tay bưng dỉa, miệng cười nhỏng nhẻo, 345
Quần theo bàn, chọc ghẹo dạy tiền.
Góc tư, góc tám, bạc nguyên,
Ở trong túi nọ, qua liền dỉa kia.
Nơi đổ bác, không lìa tửu sắc,
Bày một bên, hiếm bạc hiếm vàng. 350
Người đánh chục, kẻ đặt quan,
Ăn trăm ít mặt, thua ngàn nhiều tay.
Ở đây đủ, phương tây chư quấc,
Đến bán buôn, nhà cất nhiều tầng.
Lại còn có xóm hoa nương, 355
Bốn phương tụ hội một đường mà thôi.
Kiển xinh tốt, người coi cũng toại,
Lòng người vui, kiển lại thêm vui.
Chừng tàu sắm sữa mà lui,
Mơ màng sắc nước, nhớ mùi rượu hoa. 360
Ngày mồng tám, tháng ba ra cữa,[24]
Ít lạnh hơn đêm bữa hôm qua.
Vọng khơi gặp nổi phong ba,
Buồm trương phải cuốn, lịnh ra thì rồi.
Cây ngang giữa, phía ngoài chót vót, 365
Tên lính ngồi, đang cột mối dây.
Rủi ro bị gió thổi bay,
Trên vòm ứng tiếng cho hay tức thì.
Phía sau lái, dứt dây trái nổi,
Dựa be tàu, lính vội thả xuồng. 370

Nhằm khi dông gió luôn tuồng,
Trôi đâu biệt tích, kiếm không thấy người.
Sóng dồi quá, nằm ngồi đâu đặng,
Bợn dạ hoài, đi đứng không yên.
Bạc hà thoa hít liền liền, 375
Bữa nay chịu vậy, đặng đền hôm qua.
Đến mồng chín, trời đà trong sạch,
Tàu chạy êm, lấy sách ra coi.
Lòng người khá cũng theo trời,
Xấu thời buồn bực, tốt thời mừng vui. 380
Mồng mười gặp, gió xuôi biển lặng,
Chỗ Candie, xa chẳng thấy chi.[25]
Độ chừng theo hướng tàu đi,
Ống dòm đặt thấy đen sì mà thôi.
Ngày mười một, chạy coi tốt trớn, 385
Ionienne, sóng dợn thật xinh.[26]
Mười hai chạy tới Messine,[27]
Núi cao vọi vọi, cây xanh dờn dờn.
Coi xe lửa, chạy lòn dưới núi,
Thấy ghe câu, dong ruổi ngoài khơi. 390
Phong thủy tốt, kiển vật tươi,
Cùng non thanh lịch, tột vời tinh anh.
Mười ba khỏi, Sicile quanh quẹo,[28]
Cù lao nầy, ba triệu dân nhơn.
Gần ba trăm vẹo thước vuông, 395
Đo vòng bảy vẹo tám muôn thước dài.
Tại đây có, nhiều loài kim thạch,
Bạc vàng đồng, hổ phách sắt chì.
San hô mả nảo thiếu gì,
Sinh nhiều thứ nhứt, thứ nhì là diêm, 400
Stromboli, ban đêm ngó thấy,[29]
Núi lửa nầy, hằng cháy đêm ngày.
Ấy đèn Trời thắp ở đây,
Đặng mà soi sáng biển nấy ban đêm.
Ngày mười bốn, lại xem chỗ khác, 405
Cù lao Corse, thấy giạc cũng xa.[30]
Chỗ nầy thuộc nước Phan-sa,
Sáu mươi hai tổng, hơn ba trăm làng.

Tám muôn thước, bề ngang dài thược,
Còn bề dài, ước được vẹo ngoài. 410
Tàu đi thẳng thét một ngày,
Đến rằm mới thấy một dây núi dài.
Lìa Gia-định, tháng hai mồng chín,
Rằm tháng ba, thấy vịnh Toulon.[31]
Đi ba mươi sáu ngày tròn, 415
Ở chơi một bữa rồi còn phải đi.
Nhắm địa thế, đó thì hiễm trở,
Nội hướng nam, đây sở địa đầu.
Trên non cao, dưới biển sâu,
Xem đồn bảo rộng, thấy tàu bè to. 420
Ngó lần thấy trên bờ phố xá,
Xem kỷ coi sơn hạ lầu đài.
Đàng đi thẳng, phố cất dài,
Đàng thì lót đá, phố xây nhiều từng.
Trước thiềng thị, sau rừng cùng núi, 425
Trên phố phường, dưới suối với sông.
Núi xây quanh, biển chạy vòng,
Cản ngoài thì lủy, ngăn trong có thành.
Thấy nước biển, hoặc xanh hoặc lục,
Tại khí trời, khi đục khi trong. 430
Khi có gió, lúc nổi dông,
Lên vòi trắng xát, xuống vồng lặng trang.
Dinh tổng đốc, nhà tràng, tòa án,
Các nhà thờ, nhà quán, nhà thương.
Ụ tàu, kho súng, khám đường, 435
Thảy coi khéo léo từ trong tới ngoài.
Vườn nhà nước, cỏ cây xinh thật,
Chỗ mả mồ, đá đất xen nhau.
Người nghèo khó, kẻ sang giàu,
Ban sơ chưa chắc, đáo đầu mới hay. 440
Đời nhiều kẻ ham vì danh lợi,
Thế ít người tưởng tới ngãi nhân.
Thành nầy năm vạn ngoài dân,
Buôn dầu, cây, ngói; bán than, đá, đàng.
Tàu mới tới, cờ vàng liền kéo, 445
Cho kẻ đau, đặng hiểu phải chờ.

Xét rồi, kẻ được vô bờ,
Kẻ còn phải ở tại nhà thương kia.
Lên tới bến, tụ qui thủ ngữ,
Rương trắp đều phải dỡ cho coi. 450
Thầy trò khỏi hỏi khỏi đòi,
Nghĩ vì quan sự mới thôi lệ nầy.
Trên bờ có xe tay chuyên chở,
Tại vàm thì thuyền nhỏ rước đưa.
Khi vào nhà quán đã trưa, 455
Lên phòng sắp đặt rồi vừa buổi ăn.
Đó rồi đến viếng quan chưởng-thủy,
Lại với ông tá nhị năm khoanh.
Giấy tờ các việc đã thanh,
Về đem sỉ tử dạo thành xem chơi. 460
Học trò biết nghe lời huấn hối,
Nên thầy hay giảng nói phải chăng.
Gìn ba mối, giữ năm hằng,
Ở ăn phải thế, nói năng biết đều.
Đi chơi đã, tới chiều về quán, 465
Tính nghĩ ngơi, rồi sáng có đi.
Chừng ăn nghe nói tiếng kỳ,
Phansa kêu cirque, ta thì không tên.
Tánh lục tặc, nghĩ liền phát giận,
Nghe nói kỳ, cũng rán đi coi. 470
Coi chơi cho biết với đời,
Đã thèm đâu được với người đương ham.
Đi đến chỗ, thấy làm rạp tạm,
Dăn bố vi, một đám đất tròn.
Vào coi ghế lót từ vòng, 475
Bắt trên lần xuống tới trong lại chừa.
Cỡi ngựa đứng, mà đua chạy sãi,
Khi nhào vòng, khi lại day lưng.
Kẻ thì cỡi đứng một chưng,
Thảy đều con gái mặc quừn sát da. 480
Coi tới quận, đàn bà cũng giỏi,
Đứng dăn tay, đở nổi ba người.
Con kia cắn ghế có tời,
Đi dây con nọ như chơi cũng tời.
Một vị súng, bốn người khiên lại, 485
Con đeo trên, cắn tại dây nài.

Bắn ra một tiếng van tai,
Mà còn cắn đó có tài hay không?
Tới đàn ông, ra chồng nhiều lớp,
Coi như hình, cái tháp lớn cao. 490
Nói sao cho đặng tài nhào,
Thế chi cũng giỏi, cách nào cũng hay,
Một người đờn, trên vai cây dựng,
Thằng chót trên, ngó xuống đờn hòa.
Vui hồi già lúc tuyết sa, 495
Trợt lên trợt xuống run già run non.
Đua xe ngựa chạy tròn theo đó,
Trưng tích xưa, nên ngó coi kỳ.
Rồi ra không biết tuồng gì,
Hình thì cao nghệu, hình thì ốm tong. 500
Lớn nhỏ xứng, vai tuồng coi đẹp,
Gái trai làm, đào kép ngó xinh.
Xem người ta, xét nước mình,
Ít đua cùng chúng, ít kình với ai.
Mỗi người có, thửa tài riêng hết, 505
Nếu biết dùng nhằm việc thì hay.
Dùng người giác thể dùng cây,
Cứng làm đồ cứng, mềm xây dụng mềm.
Tỉ kẻ học, bắt đem đi cuốc,
Còn trị dân, đứa thuộc trồng cây. 510
Hay sao cho được thì hay,
Người đời đâu có một tay vẹn mười.
Ngày mười bảy ra nơi xe lửa,
Qua Marseille, nội bữa đều an.[32]
Đàng xa sáu vạn bảy ngàn, 515
Chạy hai giờ tới sánh bằng chim bay.
Khi vừa đến có người chực rước,
Lên xe đi, tới trước dinh quan.
Vào ra mắt, kể mọi đàng,
Rồi quày lại quán sữa sang dạo thành. 520
Rương trắp đã, phú anh quán tính,
Lấy biên lai, sai lảnh thế cho.
Kêu xe đi với học trò,
Ruổi dong các chỗ coi đồ vật chơi.

Nhà cữa cất, ngó coi cao dẳng, 525
Năm sáu từng, ngay thẳng tốt hung.
Kiểu làm khéo léo lạ lùng,
Thân ngoài nhiều cữa, thân trong nhiều phòng.
Dọc bờ có, cây trồng đẹp đẽ,
Ngoài đàng thì sạch sẽ vẽn vang. 530
Đi chơi ngang dọc nhiều đàng,
Thung dung phỉ chí, thanh nhàn toại thân.
Gần bốn vẹo, số dân nội đó,
Hơn ba muôn là số nhà đây.
Thuế thâu ba chục triệu ngoài, 535
Dùng làm sở tổn tiêu xài mỗi năm.
Thường niên kẻ đến làm hôn thú,
Tại nhà vuông, lấy số ba ngàn.
Sổ sanh cũng được một vàn,
Còn về sổ tử số dân muôn ngoài, 540
Việc buôn bán thành nầy trọng quá,
Ngàn triệu ngoài, hàng hóa vô ra.
Tại đây ít có tuyết sa,
Một năm đâu cũng một và lần thôi.
Tháng mười một, cùng hồi tháng chạp, 545
Nước thường đông, qua giáp tháng giêng.
Mưa vừa phải, nắng khá hiền,
Gió đều tám hướng, đổi liên bốn mùa,
Coi các sở nhà thờ đẹp đẽ,
Thấy đồ hình đồ vẽ tốt tươi. 550
Nhà thờ Nhà nước thờ Trời,
Một trăm bốn chục thước dài trước sau.
Cái tháp giữa, bề cao sáu chục,
Thân dưới mười sáu thước bề ngang.
Tiền làm quá bảy triệu quan, 555
Trên năm tháp tốt, dưới bàn thờ xinh.
Le Calvaire, giả hình tích cũ,[33]
Chỗ thờ bà Thiên-hậu coi xinh.
Saint-Joseph ấy rộng thinh,[34]
Trong coi nhiều tượng nhiều hình khéo thay. 560
Đền Du Mont, treo đầy tượng vẽ,[35]
Sự tích xưa, khôn kể dông dài.

Mont-Carmel cất lâu đời,[36]
Vào coi tượng vẽ cùng coi cái đèn.
Của thành phố quiên tiền làm cúng, 565
Lúc thiên thời, cầu khẩn rồi yên.
Nhiều nhà thờ khác cũng xinh,
Cũng nhiều hình tượng cũng in như vầy.
De la Garde, chỗ nầy cao lắm,[37]
Có cái chuông, nổi tám ngàn cân. 570
Đo từ trên chót tới chân,
Và lầu và núi ước gần hai trăm.
Lầu chuông bốn mươi lăm thước chẳn,
Còn lầu tròn, cũng đặng mười lăm.
Bề ngang tới chín thước năm, 575
Đều dùng cẩm thạch mà làm thân trong.
Trên chót có hình đồng lớn quá,
Nổi bốn mươi lăm tạ nặng lung.
Còn đồ sắt đúc đở chung,
Một trăm mười tạ kể công muôn vàn. 580
Trong hình ấy, có than khu ốc,
Từ trên đầu, đi tột tới chưng.
Hình làm chín thước cao hung,
Marie đứng tay bồng Jésus.[38]
Tại chỗ đó, thầy tu thường đến, 585
Tỏ lòng ra, kính mến trực tình.
Biết bao nhiêu kẻ tu hành,
Dốc nguyền trọn giữ lòng trinh cả đời.
Hiếm con gái, ở nơi nhà phước,
Bộn con trai, vào hược nhà dòng. 590
Ra xưng cha, hoặc xưng ông,
Gái tu gọi chị, dày công kêu bà.
Đạo thiên chúa, cùng là đạo khác,
Lập đền thờ, lập các giản kinh.
Đàn bà có tánh hay tin, 595
Nghe ra các nước đều in cũng kỳ.
Có nhiều kẻ lỡ thì chích bạn,
Bỏ đi tu cho lảng cơn sầu.
Người thì trốn thuế tránh xâu,
Tính bề làm biếng cạo đầu đi tu. 600

La Bourse đó, gồm thu đổi chác,[39]
Làm giá hàng giá bạc tại đây.
Tờ hùn bạc, giấy cho vay,
Người kia đem bán, kẻ nầy lại mua.
Đến ngày hội, đem đồ kiểu tới, 605
Chịu giá rồi, thì mới chở sang.
Dễ cho kẻ ở xa đàng,
Tới coi được giá, thì hàng mới đam.
Hồi đến đó, thì nhằm ngày hội,
Thấy đông dầy kẻ tới người lui. 610
Sáu mươi tám thước bề xuôi,
Bốn mươi bảy thước chẳn chòi bề ngang.
Có phòng chứa ba ngàn người đặng,
Nhóm tính toan việc bán việc buôn.
Tầng trên phân biệt nhiều buồng, 615
Chỗ thương nhơn hội, chỗ thương chánh tòa.
Chỗ ngăn để cho nha lại ở,
Chỗ hội đồng các sở tàu đò.
Đã khéo léo, lại lớn to,
Trong thinh thinh rộng, ngoài sồ sộ cao. 620
Les Docks ấy là lầu để chứa,[40]
Hàng cất lên mà chửa chở đi.
Rộng minh mông, lớn lạ kỳ,
Vách thì dày dặng, nhà thì lại cao.
Choán chỗ đất gồm bao sở ấy, 625
Ước chừng hai vẹo mấy thước vuông.
Cất lầu dài dọc theo đường,
Một từng dưới đất, bảy từng thân trên.
Người làm việc thường xuyên ngàn bảy,
Tàu một năm đến đấy vài ngàn. 630
Ngoài khơi có lập đá hàng,
Cản bề bảo chướng, ngăn đàng phong ba.
Dinh tổng đốc một tòa cao lớn,
Mặt trước làm hình tượng tốt thay.
Đo ra tám chục bề dài, 635
Bề ngang chín chục thước tây rõ ràng.
Tiền dùng cất cũng gần mười triệu,
Thân trong ngăn chẳng thiếu chi phòng.

Nơi ra khách, chỗ hội đồng,
Nơi kinh lịch đến, chỗ thông phán về. 640
Phần tổng đốc phòng kia phòng nọ,
Thêm các quan phòng ngủ phòng ăn.
Coi sạch sẽ, thấy nghiêm trang,
Trong dinh bóng láng, ngoài sân sáng ngời.
Chỗ nhà vuông ngó coi cũng lớn, 645
Chia hai phần đã rộng lại dài.
Có thang cẩm thạch xinh thay,
Coi phòng đám cưới khen tay thợ làm.
Sở lò thuốc có năm dảy rộng,
Ngoài ngó coi cao lớn quá chừng, 650
Đo vuông hai vạn sáu ngàn,
Gần hai ngàn thợ làm thường ở đây
Chỗ cầm đồ xứ nầy cũng trượng,
Một toà lầu vuông tượng tốt xinh.
Sở tòa án rộng thinh thinh, 655
Trường năm mươi bảy, bề hoành ít hơn,
Mười bảy cột làm bằng cẩm thạch,
Tại phòng vuông quan khách vô ra.
Ba hình tại trước mặt tòa,
Một là hình mạnh, hai là hình khôn. 660
Hình chính giữa cầm cân ngay thẳng,
Tục kêu là hình tượng công-bình.
Nhà trường học thuốc cũng xinh,
Cất gần hai triệu của thành phố cho.
Tại nhà quán học trò ta trú, 665
Sainte-Marie ở chỗ Belsunce.[41]
Ngó lên thấy cái bia phường,
Ở nơi đàng d’ Aix một vòng rộng thinh.[42]
Chung quanh có chạm hình khéo quá,
Cả thảy làm bằng đá với vôi. 670
Cao mười chín thước mà thôi,
Bề ngang mười tám, bề dày mười hai.
Chỗ trại lính, rộng dài ngay thẳng,
Nơi khám đường chắc chắn nghiêm trang.
Ngó coi đồn bảo vững vàng, 675
Lầu đài chính giữa, vách tường chung quanh.

Nhiều nhà hát coi nghìn người được,
Tính tiền làm cũng ước triệu ngoài.
Có nhà đã rộng lại dài,
Bốn ngàn người đến coi chơi cũng thường. 680
Các nhà thương nhà trường rộng rải,
Mỗi sở nuôi được mấy trăm người.
Đền Longchamp thật xinh thay,[43]
Bề cao bốn chục, bề dài quá trăm.
Tiền làm đó có năm triệu mấy, 685
Đất đo vuông gần tới bốn muôn.
Khéo đến sức, tốt quá chừng,
Nói sao đủ chuyện, vẽ không được hình.
Kiếm đồ đọ, đồ mình khó đọ,
Tìm vật kình, vật nọ khôn kình! 690
Nhiều tranh vẽ, hiếm tượng hình,
Chỗ đầy đồ kiểu, chỗ tinh đồ sành.
Cũng có chỗ để tinh xương thú,
Lại nhiều nơi bày đủ đồ dùng.
Sắp theo thứ, để từ phòng, 695
Coi ngoài đẹp mắt, xem trong vui lòng.
Người ngoại quốc tới thường ngày được,
Dân xứ nầy, chúa nhựt thứ năm.
Coi đi coi lại chẳng nhàm,
Càng thông hiểu được, càng ham coi hoài. 700
Chỗ viện sách ai coi cũng được,
Đếm cuốn ra có ước chín muôn.
Máy linh lung nọ tốt hung,
Để xem tinh tú xây luôn đêm ngày.
Kể sao xiết tài hay giỏi đấy, 705
Nói khôn cùng sự thấy biết đây.
Gọi là cho rõ là hay,
Coi thôi mới hản xứ nầy làm sao.
Đi lấy giấy xuống tàu Afrique,[44]
Đặng tới nơi cho biết Alger. 710
Tàu nầy xinh tốt mọi bề,
Đàng đi lót khảm, phòng the có màng.
Tàu đò nhỏ trẫy sang qua biển,
Sóng gió to cứ niển niển theo.

Đồ ăn đồ uống vì vèo, 715
Mà người ta vẩn chèo queo than dài.
Trên bồng lái không ai đó hết.
Một mình ta la lết xuống lên.
Rồi đâu lại thấy một tên,
Nói mình có ở tại bên Nam-kỳ. 720
Sóng dồi quá tức thì lộn xuống,
Còn một ta đi đứng như say.
Đàn bà đâu thấy một người,
Lên ngồi xuôi xị kêu Trời than van.
Hỏi ta có biết phang chi khá, 725
Trị giật giờ bợn dạ hay chăng?
Nghe người hỏi tới mới rằng,
Đi cho chuyển động hơn phang thuốc gì.
Cậy ta dắc đem đi một lát,
Vì mữa hoài mình bắt yêu rồi. 730
Dắc lên dắc xuống một hồi,
Coi hơi khá khá lại ngồi cảm ơn.
Ba mươi sáu giờ luôn chịu gió,
Tới Alger là chỗ ước trông.
Deo neo thì mới hừng đông, 735
Ngó lên triền thấy lầu chồng chập xinh.
Sáu tên lính chèo thuyền ra rước,
Đem ta vào ra mắt thủy-sư.
Nghe khuyên bảo, thấy dặn dò
Hản lòng người mến học trò như con. 740
Rồi dạy dắc vô luôn trường học,
Đặng có vào ra mắt cai trường.
Ông nầy dạy dỗ mọi đường,
Tỏ tình biết nghĩ biết thương trẻ khờ.
Sai kẻ dắc học trò đi tắm, 745
Kêu thợ vào may sắm đủ đồ.
Để ta xem sót học trò,
Tới khi từ biệt mới cho học hành.
Nhơn dịp dắc dạo thành coi phố,
Cùng đem đi mấy chỗ làng gần. 750
Đi chơi đâu được vài tuần,
Vui vầy xứ lạ đặng lần hồi quen.
Nơi cữa biển chia riêng hai chặn,
Chỗ tàu buôn tàu trận cách nhau.

Phía ngoài hai chỗ đậu tàu, 755
Đá xây cản sóng đã cao lại dày.
Lầu đèn vọi xây ngoài ụ cũ,
Sự sáng vừa bực thứ tư thôi.
Dọc bờ xây đá hẳn hòi,
Bảy trăm thước chẳn rộng dài đàng xe. 760
Nơi phường phố đất chia trên dưới,
Thang đá dài đi tới chỗ chung.
Đứng đây vát mặt ngó mông
Ngó theo mé biển chạy vòng vòng xinh.
Chỗ nầy rộng có hình đồng lớn, 765
Gái trai chiều nghễu ngớn dạo chơi.
Tới lui hiếm kẻ nên người,
Trước toan tính lợi, sau coi tập kèn.
Nhà cữa cất hai bên đàng cái,
Năm sáu từng như tại Marseille. 770
Năm muôn dân ở thành nầy,
Phansa muôn bảy, dân đây muôn người.
Thái-tây có muôn ngoài ở đấy,
Người Juifs thì ước bảy ngàn người.[45]
Các cha linh mục bên tây, 775
Cạo râu sạch bách như thầy chùa ta.
Tại Alger, các cha già trẻ,
Đều để râu như thể bên ta.
Nơi nhà thờ Đức chúa bà,
Cữa ra phía ngã Casba khéo kỳ.[46] 780
Saint-Augustin thì cao lớn,[47]
Hai mươi hai thước rộng bề ngang.
Bốn mươi lăm thước bề trường,
Cắt ngay ở trước mặt đường coi xinh.
Người xem lễ chừng nghìn rưởi đặng, 785
Tại nhà thờ ngó thẳng ngoài khơi.
Coi mặt biển liển chơn trời,
Trên xanh dọi xuống dưới thời cũng xanh.
Chùa Arabe tại thành cũng lớn,[48]
Trọng kính thờ một đứng nguơn quân. 790
Có tờ trước cữa dạy rằng:
Cổi giày cổi vớ đi chân được vào.

Muốn vào đó phải chìu theo đó.
Cổi giày ra rồi họ cho coi.
Cũng một biển, cũng một trời, 795
Sao nơi dở nón, sao nơi cổi giày?
Người Arabe người tây khác thói,
Cách ở ăn tiếng nói khác nhau.
Chớ ta lại với người tàu,
Khác nhau là tại lấy đầu làm đuôi. 800
Nhà thờ có ghế ngồi tử tế,
Chỗ Mosquée thì để trống không.[49]
Coi bề thờ phượng có lòng,
Lạy quì nghiêm chỉn, khiêm cung tận tình.
Ngó chẳng thấy tượng hình chi sốt. 805
Giữa một toà với một bàn thờ.
Người đời thuở trước tới giờ,
Một ham phú quí, hai lo cơ bần.
Thờ thượng đế thờ thần thờ thánh,
Dân khôn ngoan thờ chánh đạo thờ. 810
Xứ thờ lửa, xứ thờ bò,
Nói nhờ lửa sống, nói nhờ bò nuôi.
Suy như vậy cũng xuôi đó chúc,
Song việc thờ cứ gốc mà thờ.
Đặt người trí, đặt kẻ ngu, 815
Kẻ lo gần gủi, người lo xa vời.
Có oan ức, kêu Trời hết thảy,
Tuy mắt không ngó thấy ở đâu.
Bên tây cho tới bên tàu,
Thờ Trời mà tại khác nhau cách thờ 820
Theo đạo Phật nhơn từ thành Phật,
Thờ phụng Trời ngay thật lên trời.
Làm người an mạng thuận thời,
Ở đời biết nghĩa, qua đời để danh.
Các đạo dạy làm lành lánh dữ, 825
Noi đạo hằng trung thứ cũng xong.
Hóa công chí thiện chí công,
Lỗi lầm nếu cải thật lòng thì tha.
Biết rõ được lẽ tà lẽ chánh,
Nhờ các lời ông thánh ông hiền. 830

Coi thôi đã đủ chùa chiền,
Bây giờ coi lại thị thiềng làm sao.
Dinh tổng thống rường cao cột lớn,
Ở thân trong phòng rộng vách dày.
Thuở Français chửa lấy đây,[50] 835
Hassem tổng trấn ở nơi dinh nầy.[51]
Có nhiều chỗ vẽ hay chạm khéo,
Cả tòa làm theo kiểu xứ nầy.
Vưng quan tổng thống ta đây,
Dạy vào dinh đó viếng thay mặt ngài. 840
Về trường học gặp người tới viếng,
Ông Coste Charles thương biện đất ta.[52]
Đem về ăn uống tại nhà;
Cùng đi viếng mấy người bà con chơi.
Rồi lại quán nói cười vui lắm, 845
Khuya rủ nhau đi tắm cách maure.[53]
Bước qua phía ngã major,[54]
Tới nơi thấy bản để cho dễ tường.
Ngọ tới dậu phần đàn bà tắm,
Dậu giáp ngọ về đám đàn ông. 850
Bước vào vừa tới thân trong
Có người ngồi dựa bên phòng chào ta.
Biểu vàng bạc đưa ra cho nó,
Đếm giao rồi lấy bỏ vào rương.
Kêu người đắc thẳng vô trong, 855
Thay quừn đổi áo bận ròng đồ đây.
Mặc chăn trắng chân đi đôi guốc,
Qua phòng kia hơi nước xông lên.
Mồ hôi mồ hám tuông liền,
Lại đem ngồi tại phía trên miệng lò. 860
Đèn dầu thắp lờ mờ lối vách,
Quanh mình nghe tiếng hát rền tai.
Hồi lâu thấy một tên trai,
Đến đem ta lại gần nơi vách tường.
Bèn đoái thấy vòng tròn theo vách, 865
Lót từ viên cẩm thạch lài lài.
Nước thông mỗi chỗ hai vòi,
Vòi thời nước lạnh, vòi thời nước sôi.

Ra dấu biểu nằm dài xuống đó,
Trên một bồn nước đỏ tràng ra. 870
Savon xát, hải hoa chà,[55]
Đấm lưng bóp cẳng kỳ da gội đầu.
Rồi đở dậy mà lau mình mẩy,
Đem lại nơi hồi nảy để ngồi.
Đưa chăn khô ráo thay rồi, 875
Dắc ra nằm nghỉ một hồi khỏe ru.
Mắt đang ngó coi đồ quanh đó,
Bỗng chúc đâu thấy có một tên.
Tay bưng trà thuốc đưa lên,
Uống trà hút thuốc rồi liền lim dim. 880
Chiêm bao thấy một điềm cũng lạ,
Thấy mình nằm trên đá tắm chơi.
Giựt mình mở mắt tức cười,
Thay quừn đổi áo rồi dời chơn ra.
Tên coi cữa thấy ta bèn xá, 885
Rồi mở rương lấy trả đủ đồ.
Xét coi biết mấy công phu,
Mà đòi ba cát thật cho rẽ kỳ.
Kẻ đến đó không nghi chi hết,
Tin giao đồ là biết chẳng sai. 890
Nghĩ trong thiên hạ mà coi,
Tin thời mới dụng, nghi thôi ai dùng.
Đêm khuya vắng đi cùng ông Coste,
Chuyện vãn chơi lần tột tới nhà.
Nghỉ ngơi được sáu bảy giờ, 895
Giả từ tới chợ coi ra thể nào.
Đồ Arabe xe vào đàng bộ,
Nhóm bán buôn tại chỗ d’Isly.[56]
Củi, than, cam, mật, thiếu gì,
Để quanh theo chỗ hình vì Bugeaud.[57] 900
Đòi tiền chỗ thì đo từ thước,
Mỗi thước vuông thâu ước hai tiền.
Đi lần tới ngã Varennes,[58]
Vựa dầu liền thấy một bên đàng nầy.
Chỗ bán lúa gần đây chật bó, 905
Thêm đồ kia vật nọ dẩy đầy.

Qua coi chỗ Chartres đông dầy,[59]
Hàng thời hoa quả, hàng thời đậu rau.
Người nhiều sắc trông vào đẹp mắt,
Đi mua ăn dám chật cứng đàng, 910
Bò, heo, gà, vịt, bánh hàng,
Bán hai bên tiệm bộn bàn người mua.
Trẻ nho nhỏ cả tua đi đội,
Cho một tiền đem tới tột nhà.
Người buôn trái, kẻ bán hoa, 915
Ba tiền một thước chẳng tha người nào.
Qua bữa khác đi vào chợ cá,
Thấy bày trên tợ đá sạch trơn.
Đi qua phía ngã Mahon.[60]
Cũng còn thấy bán thấy buôn bộn đồ. 920
Chiều chiều dắc học trò dạo phố,
Thấy bán đồ giống chỗ Marseille.
Như vầy thấy vậy cũng vầy,
Hàng kia đem đến chỗ nầy bán buôn.
Malakoff có phòng giảo giá,[61] 925
Bán những đồ chúng đã dùng rồi.
Làm quan khi đổi lúc thôi,
Bán đồ rồi dễ bề dời đi xa.
Hoặc thương khách có nhà khánh tận,
Làm án rồi bán đặng chia nhau. 930
Làm vầy đã dễ lại mau,
Cho người lảnh bán ăn đầu ít phân.
Sở giám mục ở gần lối đó,
Khi đi ngang mắt ngó thấy xinh.
Các tòa án, các trại binh, 935
Khéo làm mặt trước, rộng thình thân trong.
Coi hảng bạc lớn bường kho bạc,
Rồi coi qua nhà hát tốt xinh.
Thân trong coi cũng rộng thinh,
Chỗ ngồi ước được vài nghìn người ta. 940
Chỗ Square ấy, vườn hoa chung đó,[62]
Nhiều thứ bông mắt ngó lạ lùng.

Marengo cũng xinh hung,[63]
Vườn chung quan lập vui cùng dân đây.
Vườn d’ Essai xứ nầy rộng rải,[64] 945
Nhiều thứ cây có tại đất ta.
Tre, thơm, dừa, chuối, chà-là,
Thấy cây ấy phát nhớ nhà mình luôn.
Nhớ cha mẹ bà con cô bác.
Nhớ quê hương mình bắt buồn xo. 950
Ta bèn dắc trẻ học trò,
Lại ngồi coi sách đặng cho bớt buồn.
Ba trăm năm sử còn chép rõ,
Coi thấy liền sự chỗ vườn nầy.
Charles-quint thuở trước muốn đây.[65] 955
Đem binh ba vạn đánh vây lấy thành.
Khi tàu tới quan binh lên bộ,
Kéo nhau vào đình trú tại đây.
Nghỉ ngơi cho tới sáng ngày,
Phân binh ba đạo kéo ngay hảm thành. 960
Người Arabe nhạn binh cự địch,
Tính thế thua lui riết vào thành.
Đàng nầy thừa thế tấn binh,
Mới vùng vụt tới, kế thình lình mưa.
Mưa gió vậy kéo cưa tới sáng, 965
Mình lạnh run mà rán chịu luôn.
Khi binh hao tới hai muôn,
Tàu năm trăm chiếc, chìm còn ba trăm.
Lương thực hết phải đam nhau chạy,
Ấy mới thôi mình cậy sức tài. 970
Nghĩ coi sự chẳng tại Trời,
Nếu Trời không muốn đố người làm nên.
Đầu tháng tư nghe tin ông Coste,
Vào nhà thương cho được dưỡng an.
Học trò ta tính luôn đàng, 975
Đi thăm rồi lại vào làng ấy chơi.
Nhà thương đó ngó coi đẹp đẽ,
Buồng the xem sạch sẽ vẻn vang.
Dạo lần coi tới ngoài vườn,
Màu thanh bạch tốt, sắc hồng lục xinh. 980

Nghe nói lại đây dinh tổng trấn,
Trải xem qua thật đáng chỗ quan.
Xưa kia nghĩ cũng nghiêm trang,
Không dè kẻ liệt choán ngan thế nầy.
Ngày mồng sáu mấy thầy mời đãi,[66] 985
Đặng đưa ta trở lại Marseille.
Rồi đem coi khắp trường nầy.
Cả ngày đi mãi, nội ngày vui luôn.
Năm Mậu-thìn nhà trường mới cất,
Tại nơi triền núi đất coi xinh. 990
Lầu ngang lầu dọc rộng thinh,
Học trò nuôi dạy được nghìn mấy tên.
Bữa mồng bảy ta bèn đãi lại,
Những người quen ở tại xứ nầy.
Học trò, ông Coste, mấy thầy, 995
Kẻ quen người lớn cũng vầy đưa đi.
Chiều thứ bảy nhằm ngày mồng bảy,
Để đôi lời khuyên dạy học trò.
Lo mà học, học phải lo,
Lo cho được tiếng, học cho có tài. 1000
Học trò vẩn dọt dài dọt vắn,
Nhắn nghe thôi đều đặng đều không.
Lo cha nhớ, sợ mẹ trông,
Thương anh thương chị thương ông thương bà.
Nhiều lời lắm tỏ ra một lược, 1005
Nổi hiếu trong muốn được hai đàng.
Những lời thảm, những tiếng thương.
Xót lòng người nói, động lòng người nghe.
Học trò xuống dưới ghe ngó lại,
Ta lộn lên bồng lái trông theo. 1010
Thấy ghe chèo mấy mái chèo,
Lòng đau mấy đoạn, ruộc teo mấy lần.
Lên tới bến sắp hàng đứng đó,
Thảy đều day mắt ngó ra tàu.
Dưới trên đem mắt nhìn nhau, 1015
Tới không phân biệt được màu trắng đen.
Thì tàu đã xa miền Arabe,
Còn đứng trông sao nhắp nhán xa.

Nội tàu ai cũng như ta,
Cũng người xa xứ xa nhà như nhau. 1020
Khi đi tới muốn mau mau tới,
Lúc trở về cũng vội vội về.
Kẻ đi xứ lạ về quê,
Một khi đẹp mắt, một khi vui lòng.
Năm giờ sáng ngày mồng chín tới, 1025
Chở rương lên xe lợi quán liền.
Rồi ra đi viếng người quen,
Ông Josselme rước đem lên trên nhà.[67]
Thấy bà mẹ tuổi già còn sỏi,
Còn ông cha đi khỏi xa đường. 1030
Con đã mến, mẹ lại thương,
Cầm ta thết đải cũng bường người thân.
Đem đi dạo lần lần nhiều chỗ,
Lại dắc vào coi sở thầy dòng.
Nhà trường lớn, học trò đông. 1035
Có sân rộng rải, có trồng cây xinh.
Xứ lạ gặp người mình mừng quính,
Nhơn, Khanh, Khương, Học, Xuyến, Khuôn, Mây.[68]
Cùng nhau chuyện vản vui thay,
Tưởng đều sum hiệp vui vầy cùng nhau. 1040
Ngày vui vẻ qua mau như chóng,
Ngó ác vàng thấy bóng xế qua.
Ông Josselme dắc về nhà,
Tới nơi lại được thơ bà con ta.
Dở ra thấy cả nhà mạnh giỏi, 1045
Tin Paris lại hối ta qua.
Quan đây lòng cũng thương ta,
Cấp cho trăm bảy để mà đi xe.
Bảy giờ tối ta đi lấy giấy,
Lên xe rồi vục chạy như dông. 1050
Nữa đêm ghé tại Lyon,[69]
Giựt mình thức dậy ngó xông quanh mình.
Thấy đèn khắp thị thành tốt lộng,
Xem lầu cùng gò nổng xinh kỳ.

Hai bên lối chỗ ngừng xe, 1055
Bên thì nhà quán, bên thì nhà tiêu.
Ngừng một khắc có nhiều kẻ xuống,
Nhắm hai bên ý muốn bên nào.
Trên rộn rộn, dưới ào ào,
Lộn lên lộn xuống lộn vào lộn ra. 1060
Xuống xe phải coi qua chữ số,
Lên lầm rồi không chổ nằm ngồi.
Tám mươi muôn thước đàng dài,
Sáng đêm thấy tới, sánh tài tên bay.
Mười giờ sáng mồng mười xe đến,[70] 1065
Trần-nguơn-Hanh ra bến ngóng trông.
Bịch khăn nhiểu, bận áo lông,
Mắt mang kiến trắng, chơn tròng giày đen.
Xe ngừng máy ta liền nhảy xuống,
Bấy lâu nay lòng muốn gặp nhau. 1070
Gặp nhau mừng biết chừng nào,
Đem nhau về quán đặng vào nghỉ ngơi.
Cùng nhau kể việc đời dời đổi,
Phải theo thời sớm tối nắng mưa.
Coi đời nay, xét thuở xưa, 1075
Tối rồi kế sáng kế trưa lẽ thường.
Muốn biết đặng các đường sá hết,
Lấy địa đồ xem xét hẳn hòi.
Coi lần chỗ phải đi coi,
Gần thời coi trước, xa thời coi sau. 1080
Dưới sông có những tàu đò nhỏ,
Đưa rước người đầu nọ cuối kia.
Đã nệm lót, lại màn che,
Khắp nơi khéo dọn, mọi bề sạch trơn.
Không hút thuốc ngồi trong chuyện vản, 1085
Muốn thung dung lên thẳng từng trên.
Mười lăm chỗ bến hai bên,
Chiếc đi mười phút, chiếc bèn tới nơi.
Xa gần cũng cứ đòi một giá,
Trả tiền rồi xuống đó tới lên. 1090
Trên bờ xe chạy liền liền,
Cái chung nhiều kẻ, cái riêng ít người.

Có xe lửa vòng nơi thành ấy,
Lên ngồi coi ngó thấy chung quanh.
Đàng đi ba vạn năm nghìn, 1095
Làm theo gần lối chưng thành ấy luôn.
Dân nội đó có hơn hai triệu,
Quá Nam-kỳ ở tụ một thiềng.
Số nhà sáu vạn mấy nghìn,
Thuê ba trăm triệu thường niên xây xài. 1100
Nội thành đó chia hai mươi quận,
Dân cử người cai quản việc chung.
Ngoài thành mười sáu cái đồn,
Muốn coi thì phải làm đơn xin vào.
Hai mươi bảy cái cầu lớn quá, 1105
Đều làm bằng sắt đá tốt thay.
Có cầu sáu nhịp khéo xây
Bốn trăm thước chẳn chạy dài qua sông.
Ngó xuống nước, nước trong tợ lọc,
Xem trên đàng, đàng sạch như chùi. 1110
Mé sông xây đá thẳng xui,
Cây trồng đều khoản theo đôi bên đàng.
Bộn bàn chỗ mở mang rộng lớn,
Để mặc ai nghểu ngớn chơi bời.
Hay làm hình dựng giữa trời, 1115
Để trưng tích trước, nhắc người đời sau.
Chỗ Bastille khi nào thành quách,[71]
Tới lúc nầy sạch bách trống không.
Đến đây thấy một trụ đồng,
Thân trên để đứng thung dung một hình. 1120
Carrousel, chung quanh đều kín,[72]
Có bia phường mười chín thước dày.
Bề cao mười bốn thước ngoài,
Chạm hình quân tướng dẩy đầy bốn bên.
Xe đồng ở thân trên bốn ngựa, 1125
Hình đàn bà đứng giữa cầm cương.
Château d’eau cũng rộng đường,[73]
Có hình sư-tử bằng đồng lớn hung.
Châtelet có bồn nước tốt,[74]
Trổ ba hình dựa một trụ xinh. 1130

Thân trên dựng tượng Hiển vinh,
Dưới chưng lại có chằn tinh bốn hình.
Chỗ Concorde coi minh mông rộng,[75]
Thấy một viên đá dựng khỏi lầu.
Hai mươi ba thước bề cao, 1135
Hai trăm rưỡi tạ biết bao nhiêu tiền.
Thêm đá tán một viên lớn đại,
Bốn thước cao thước bày bề ngang.
Hai bồn nước chảy ngoài đàng,
Bề cao chín thước, nước tràng ra xinh. 1140
Chỗ l’Etoile tròn vình rộng rải,[76]
Tóm mười hai đàng cái lại đây.
Bia phường ở giữa chỗ nầy,
Tiền làm mười triệu, tay xây dư ngàn.
Bốn mươi bốn thước ngang qua rộng, 1145
Bốn mươi lăm thước thẳng lên cao.
Trung thần tử trận ông nào,
Để bia hậu thế chạm vào rạng danh.
Chỗ Louvois coi thanh lịch lắm,[77]
Các thứ bông màu thắm sắc tươi. 1150
Có bồn nước chảy tuông rơi,
Bốn hình đồng đứng dựa nơi bồn nầy.
Chỗ Royale nhà xây bao bọc,[78]
Lại có cây trồng dọc mé đường.
Bốn bồn nước đổ ra thường, 1155
Louis XIII (mười ba) cỡi ngựa đồng coi xinh.
Chỗ Eugène có hình hoàng tử,[79]
Chỗ Michel lại có bồn to.[80]
Cái bồn tại chỗ Saint-Georges,[81]
Thua nơi Sulpice nhiều đồ xinh thay.[82] 1160
Chỗ Vendôme lầu đài đẹp qná,[83]
Chính giữa làm trụ đá giác đồng.
Bốn mươi lăm thước cao hung,
Chạm ra các trận đoanh vòng tới trên.
Dựng trên chót một hình đồng đúc, 1165
Napoléon nhứt vua đây.[84]

Leo lên tới chỗ hình nầy,
Xem trong thành tốt, coi ngoài cảnh tươi.
Chỗ Trône ấy đi mười ba ngỏ,[85]
Trụ hình vua xây đó có hai. 1170
Chỗ Victoires cũng vui thay,[86]
Hình Louis XIV (mười bốn) dựng đây một mình.
Chạm hình thú coi in thú sống,
Trổ tượng người ngó giống người đây.
Khôn bắt chước, khó sánh tày, 1175
Thảy ròng tay thợ tay thầy làm ra.
Saint-Denis cũng là bia lớn,[87]
Các trận Louis XIV (mười bốn) chạm đây.[88]
Saint-Martin cũng thế nầy,[89]
Cũng bia các trận ra đầy bốn bên. 1180
Henri IV (quatre) là hình ngồi ngựa,[90]
Tại cồn cao ở dựa bên cầu.
Kìa hình quan tướng tài cao,
Ông Ney danh tiếng đời nào cũng vinh.[91]
L’Arbre sec có hình tiên nữ,[92] 1185
Tay bưng bình nước đổ ra bồn.
Cuvier ở góc đường,[93]
Nơi bồn có một hình đàn bà xinh.
Bồn Gaillon có hình thần lạ,[94]
Cầm chỉa ba đâm cá nược to. 1190
Bồn Grenelle mới khéo cho,[95]
Xây làm bán nguyệt lại tô đắp hình.
Ở phía dưới chung quanh nhiều trụ,
Chỗ hủng vào trổ đủ tứ thì.
Giữa bồn có tượng Paris, 1195
Seine thì bên nọ, Marne thì bên nây.[96]
Innocents bồn xây nhiều bực,[97]
Tới nữa chừng lại cất nhà vuông.
Chót trên trùm một nóc tròn,
Đầu thang sư-tử, trong khuôn hình người. 1200

Molière tài hay tót chúng,[98]
Đặt tuồng đồ ai cũng ngợi khen.
Người tuy mất, chúng chẳng quên,
Tại bồn kia có để tên đó đời.
Coi trụ đá xây nơi bồn ấy, 1205
Trên đề tên cho thấy hiển vinh.
Hình người ngồi giữa tốt xinh,
Bên hình tuồng thiệt, bên hình tuồng chơi.
Nhiều phường phố giàu coi quá sức,
Bộn ngã đàng người chật như nêm. 1210
Thêm dồn tới, tới dồn thêm,
Ngày như đêm sáng, sáng đêm như ngày.
Trên nhơn đức lòng hay thương dưới,
Dưới hiếu trong dạ lợi mến trên.
Hay toan tính, khéo gây nên, 1215
Trên làm lợi dưới, dưới đền ơn trên.
Buổi làm việc coi siêng quá trớn,
Lúc chơi bời trửng dởn cũng hung.
Bảy ngày một bữa thung dung,
Người tầm tây tử kẻ tùng lưu linh. 1220
Tuileries vườn xinh tốt quá[99]
Xây nhiều hồ bằng đá trắng trong.
Bảy trăm hai thước bề trường,
Ba trăm mười bảy bề ngang rộng thình.
Cây trồng đứng theo hình ba góc, 1225
Trên mịt mù dưới gốc trống trơn.
Có hồ bác giác đầu vườn,
Giữa làm vòi nước bắn lên mạnh kỳ.
Luxembourg tường vi rực rở,[100]
Ngó tới cam trồng ở trong thùng. 1230
Lá coi quắn quíu động lòng,
Bắt quăn quít ruột, lạnh lùng cam tâm.
Bước xa chỗ cây nam trồng bắc,
Cho lảng cơn buồn bực niềm tây.
Bồn Léda đó xinh thay,[101] 1235
Médicis nọ thấy đầy hình to.[102]

Giữa vườn có một hồ phải thế,
Trổ một bầy con trẻ đứng trong.
Tay bưng tô nước bằng đồng,
Thẳng ngay một giọt nước phun cao kỳ. 1240
Tại sân rộng xanh rì sắc cỏ,
Trồng bông đều ngó tợ gấm hoa.
Dựng hình đứng những đàn bà,
Hết lòng giúp nước, giúp nhà có danh.
Chỗ đàng thẳng người lanh quanh ngó, 1245
Coi đánh lăn tại đó đông dầy.
Đàng kia tiếng nhạc êm tai,
Mỗi tuần chiều có tại đây hai lần.
Vậy nghe thấy quan dân vui vẻ,
Ấy chơi bời già trẻ cũng đều. 1250
In đời Thuấn, dỏi vua Nghiêu,
Hễ làm tay dưới, cứ chìu vai trên.
Hai mươi chín gặp con cô Nhứt,[103]
Ở nhà trường chúa nhựt ra chơi.
Rồi đâu lại gặp Lý-phôi, 1255
Vui mừng trò chuyện một hồi với ta.
Đó đi thẳng tới nhà ông Đức,
Mừng ông bà được sức khỏe luôn;
Người con ông chúa tàu Long,
Có công đánh giặc Tây-sơn cho mình. 1260
Nguyễn-văn-Thắng là tên vua đặt,
Tên Chaigneau mới thật tên người.[104]
Bà Ngải, bà Tính, bà Lài,
Mẹ cha ở Huế thuở đời Gia-long.
Nghe ra cũng có công nghiệp lớn, 1265
Lê-văn-Lăng ấy vốn người đây.
Vannier thật là ngài,[105]
Qua đời Minh-mạng lại quày về Tây.
Nghe giọng nói theo người ở Huế,
Đến nhà thăm phải thế quá chừng. 1270
Mừng người viếng, viếng người mừng,
Già vì thương trẻ, trẻ thương vì già
Champs-Elysées là vườn rộng,[106]
Chỗ vào xây trụ lớn hai bên.

Có làm cặp ngựa thân trên, 1275
Coi tuồng chúng chứng với tên chăn mình.
Các vồng bông coi xinh tốt lắm,
Chỗ cỏ cây mấy đám xanh dờn.
Chiều chiều nghe hát nghe đờn,
Rần rần xe chạy, luôn luôn người vào. 1280
Vườn Monceaux bông nào cũng có,[107]
Rạch, cầu, rừng, non bộ, cung tiên.
Coi hồ dáng thuẩn rộng rinh,
Xây quanh nhiều cột, xây liền dưới trên.
Vườn Du Temple có nguồn nước đổ,[108] 1285
Cây liểu đây sống đã bốn đời.
Montholon cũng chỗ chơi,[109]
Có nguồn nước chảy ra ngoài hòn non.
Vườn Saint-Jacques năm ngàn ngoài thước,[110]
Tháp giữa nầy cao ước năm mươi. 1290
Hình Saint-Jacques đứng góc ngoài,
Hình bò, sư-tử gần nơi phụng hoàng.
Rừng Boulogne bề ngang trăm thước,[111]
Còn bề dài thì được ngàn ba.
Chỗ cây thẳng, chỗ cây sà. 1295
Những là cây lớn, những là cây cao.
Nơi hồ trên có tàu đò chạy,
Đưa rước người qua lại lao xao.
Chỗ hồ dưới có cù lao,
Phía trên lại có rừng bao mịt mù. 1300
Có quán rượu tại cù lao lớn,
Thấy ra vào bớn tớn gái trai.
Chỗ trường đua ngựa cũng dài,
Ba tòa nhà lớn chỗ coi năm ngàn.
Gò nhiều đá nằm ngang ngữa đó, 1305
Suối có nơi nước đổ ào ào.
Bộn gò nổng, hiếm vũng ao,
Trông ra mấy cảnh biết bao nhiêu người.
Vườn thú vật tại nơi rừng đó,
Nuôi đủ loài thú ở phương tây. 1310

Lại trồng đủ các thứ cây,
Để coi thổ sãn phương nầy làm sao.
Qua bên hữu ngã vào vườn đó,
Lại luôn chơn tới chỗ để tằm.
Hai mươi mốt khoản thượng cầm, 1315
Một nhà tới sáu mươi lăm thước dài.
Ngoài rào ví các loài chim lớn
Xem hình thù sơ sởn sắc lông.
Nhà nuôi gà vịt quanh vòng,
Dài hơn trăm thước, ngăn lồng năm mươi. 1320
Chuồng nuôi thú cũng dài cũng rộng,
Có các loài các giống ngựa lừa.
Coi đây lại nhớ tích xưa,
Văn vương vườn ấy đâu thua vườn nầy.
Phía tả cất nhà dài lại rộng, 1325
Ngăn một bên mười bốn khoản luôn.
Vách kiến trắng, nước bồn trong
Thả nhiều thứ cá mắt trông xinh kỳ.
Loài ốc vẹm, thứ chi cũng có,
Bò vô ra được võ coi xinh. 1330
Thân ngoài bồn lớn rộng rinh,
Các loài cá biển khoe mình dài to.
Nuôi có chỗ chiên bò đủ thứ,
Lại có nơi heo chó nhiều loài.
Còn loài cầm thú các nơi, 1335
Thử nuôi coi đặng lâu dài hay không.
Sớm đi dạo một vòng hóng mát,
Ra Passy uống nước suối trong.[112]
Auteuil ngày lễ vui hung,[113]
Nhạc nghe êm ái, nước phun cao kỳ. 1340
Đi đến chỗ Neuilly cũng ngộ,[114]
Kiểu nhà thờ tại đó lạ thay.
Vincennes đồng rộng rừng dài,[115]
Hồ kia đẹp đẻ, lầu nầy tốt xinh.
Chaumont coi hình thế đẹp,[116] 1345
Nơi phía vườn hồ hẹp suối sâu.

Dạo vườn tược, đến sông cầu,
Trên xe lớn rước, dưới tàu nhỏ đưa.
Chừ nói tới nhà thờ mấy sở,
Mắt đã coi thấy ở Paris. 1350
Thấy cao quá, lại xinh kỳ,
Trong coi phải thế, ngoài thì có oai.
Notre-Dame, bề dài trăm thước,[117]
Nhắm bề ngang gần được năm mươi.
Bề cao ba chục thước ngoài, 1355
Sáu mươi tám thước tột nơi chót lầu.
Phía mặt trước liên nhau ba khoản,
Ba cữa vào lại chận làm hai.
Thiệt là rộng, thiệt là dài,
Phía trong không trống, phía ngoài trống không. 1360
Hai mươi bảy hình ông vua lớn,
Đứng trên lầu từ khoản xa xa.
Giữa Thiên thần với Chúa Bà,
Adam bên nọ, Evà bên nây.[118]
Lại nơi cữa qua ngay phía bắc, 1365
Run chuông kêu kẻ dắc đi lên.
Trả công cho hắn ít tiền,
Đem coi chuông lớn ở trên tháp nầy.
Đàng phân tâm được hai thước bảy,
Đúc hết chừng trăm mấy tạ đồng. 1370
Được hai tất rưỡi dày luôn,
Dùi chuông năm tạ, biết công mấy vàng.
Ở chính giữa một bàn cao lớn,
Thờ Hoàng thiên coi trọng thể hung.
Ba mươi bảy chỗ quanh vòng, 1375
Để thờ các thánh đàn ông đàn bà.
Có một trăm mười ba cữa kiến,
Vẻ những hình, nhắc chuyện tích xưa.
Mười hai trụ đá lớn to,
Gần ba trăm trụ vừa vừa đều xinh. 1380
Kể chẳng xiết tượng hình chạm đó,
Cùng đồ đồng, đồ gổ bày đây.
Muốn vào coi chỗ kho nầy,
Nên đưa một cát cho thầy giữ kho.

Coi thánh giá Jésus chuộc tội,[119] 1385
Với mủ gai người đội thuở xưa.
Áo ai còn đó sờ sờ,
Đồ vàng đồ ngọc các vua cúng đầy.
Tới tủ kiến, thì thầy đứng lại,
Mở cữa ra, để vậy cho coi. 1390
Đọc kinh làm dấu một hồi,
Rồi cho mỗi kẻ mỗi bài khéo in.
Ngó vào đó thấy tinh những áo,
Của mấy người vì đạo phải thương.
Nhìn xem dấu máu ràng ràng, 1395
Động lòng thương kẻ thác oan thế nầy.
Saint-Bernard mười hai chặn lớn,[120]
Phía trong xem bốn tượng vẽ hay.
Sainte-Chapelle tháp cao thay,[121]
Mười lăm cữa kiến, mười hai tông đồ. 1400
Sainte-Clotilde bàn thờ cẩn ngọc,[122]
Sainte-Denis bốn đức phân minh.[123]
Saint-Etienne có tháp xinh,[124]
Có tòa giản đẹp, có hình đất to.
Saint-Eustache bàn thờ đá trắng,[125] 1405
Thánh tông đồ hình tượng khéo thay.
Saint-Eugène cữa kiến đầy,[126]
Đã nhiều sơn thếp, lại hay vẽ vời.
Saint-François am xây dưới đất,
Lại nhiều đồ hình phạt các nơi. 1410
Để trong nhà học gần đây,
Phải vào xin phép rồi thời được coi.
Panthéon nhắc người hiền ngỏ,[127]
Miểu công thần để rõ tài hay.
Thang mười lăm nấc cao dày, 1415
Hai mươi hai cột thân ngoài cữa vô.
Phía trước mặt đắp tô hình tượng,
Hình quê hương ban thưởng người tời.
Đôi bên đều có hình ngồi,
Bên hình sử ký, bên thời thong dong. 1420

Phía hữu có hình ông quan vỏ,
Bên tả thì lại có quan văn.
Dưới còn có chữ ghi rằng:
« Quê hương ấy cũng biết ân người tài. »
Thân trên cữa dẩy đầy hình chạm, 1425
Hai bên thêm hình cẩm thạch trơn.
Hiên sau tinh những cột vuông,
Giữa xây một cái lầu tròn uy nga.
Bề cao tám mươi ba thước môt,
Bốn cái than lên tột từng trên. 1430
Mười hai cữa sổ liên liên,
Quanh vòng nhiều cột xây riêng thân ngoài.
Từng gần chót cũng xây tròn ủm,
Nóc dáng ô lại túm lầu liên.
Xây quanh mười cột thẳng lên, 1435
Phía trong cữa kính, thân trên nóc tròn.
Nền ngoài thấp hơn trong vài bực,
Trụ cột làm trang sức lắm thay.
Đã chạm khéo, lại vẽ hay,
Bàn thờ ngó đẹp, ghế ngồi nghe êm. 1440
Cho chúc đỉnh họ đem xuống dưới,
Xem mả mồ lại tới chỗ hang.
Nói ra tiếng dội nghe vang,
Lặp đi lặp lại rõ ràng chẳng sai.
Saint-Germain có hai chỗ lớn,[128] 1445
Vào trong coi hình tượng thiếu gì.
Saint-Jean, Saint-Jacques kém chi,[129]
Cùng Saint-Joseph ấy thì cũng xinh.[130]
Saint-Laurent có hình thánh đó,[131]
Đứng giữa người nghèo khó thảm thương. 1450
Saint-Gervais cũng khéo bường,[132]
Chơn đèn nhiều cái bằng đồng coi xinh.
Saint-Louis có nhiều hình nhiều tượng,[133]
Saint-Merri lầu lớn tháp cao.[134]

Saint-Médard có phía sau,[135] 1455
Muốn coi thổ mộ xin vào mà coi.
Madeleine nền mười một bậc,[136]
Thềm đá xây làm nấc thang lài.
Kiểu làm vuông vức mà dài,
Cột tròn bao bọc thân ngoài mỉ quang, 1460
Mười bốn cột hai hàng trước mặt,
Tám cột làm phía bắc dăn ngang.
Đông tây xây cột ngay hàng,
Mười lăm mỗi phía lớn bằng như nhau.
Mười lăm thước bề cao sau trước, 1465
Chừng ba mươi chín thước bề dài.
Bề ngang đuợc bảy thước ngoài,
Mái hiên đắp tượng về ngày xét chung.
Ba mươi bốn tượng trong chỗ đó,
Thảy đều là thánh nữ thánh nam. 1470
Cữa đồng coi kép công làm,
Coi đồ chạm vẽ bắt ham coi hoài.
Trong mỗi phía cột xây từ cặp,
Dựa theo tường tô đắp xinh thay.
Lập bàn chính giữa thờ Trời, 1475
Chạm hình thánh mẫu thuở người thăng thiên.
Nicolas tháp trên phải thế,[137]
Thêm hình tô tượng vẽ dẩy đầy.
Notre-Dame có nhiều nơi,[138]
Nơi thêm tên nọ, nơi thời tên kia. 1480
Saint-Paul với Saint-Louis một chỗ,[139]
Cũng hình kia tượng nọ bộn bàn.
Saint-Pierre nhắc Chúa gian nan,[140]
Sau vườn có lập các đàng theo xưa.
Chỗ Saint-Roch giữa thờ thượng đế,[141] 1485
Sau ba bàn tế lễ thánh nhơn.
Hai bên mười tám bàn luôn,
Kính thờ các thánh các thần hiển linh.
La Sorbonne, coi xinh tốt quá,[142]
Có tượng hình, có mả thân trong. 1490

Saint-Sulpice cũng lớn hung,[143]
Bảy mươi thước tới tháp vuông mặt tiền.
Trinité, tháp trên cao lớn,[144]
Lầu dưới làm đã rộng lại xinh.
Trước nhà thờ có hoa viên, 1495
Ba ngàn thước rộng, bốn bên có rào.
Val-de-Grâce, trông vào đẹp đẻ,[145]
Lầu trên làm tròn trịa xinh thay.
Nhiều nhà thờ khác khéo xây,
Thân trong khoản khoác, phía ngoài uy nga. 1500
Các nước lập nhà thờ tại đó,
Nhiều chỗ làm kiểu ngó coi xinh.
Cũng nhiều tượng, cũng nhiều hình,
Cũng khoe sức khéo, cũng kình tài hay.
Chi chẳng giỏi, có tài coi giỏi, 1505
Cái nào hay, ngó tới biết hay.
Lâu nay ở tại thành nầy,
Gặp nhiều quan chức về rày dưỡng an.
Đem ăn uống, chỉ đàng vẽ ngỏ,
Dắc chơi bời, biết chỗ quen người. 1510
Ông Dupuis có cho mời,[146]
Tới ăn nghe nói việc nơi Bắc-kỳ.
Ông Des Michels thầy dạy học,[147]
Hay chữ tàu, lại thuộc tiếng ta.
Mời về thết đải ngoài nhà, 1515
Versailles xứ ấy thật là tốt hung.
Quen biết rõ người thông thái hản,[148]
Thi mấy khoa, đậu tấn sĩ luôn.
Dịch nhiều sách vở thơ tuồng,
Nôm na thiệt giỏi, văn chương cũng tài. 1520
Chừ thốt đoạn lầu đài dinh dẩy,
Đi dạo chơi thấy tại trong thành.
Le Louvre thật tốt kinh,[149]
Đền đài cao lớn vòng quanh vuông dài.
Mặt đông năm mươi hai cột lớn, 1525
Xây một hàng mỗi chặn hai cây.

Một trăm sáu chục thước dài,
Tới hai mươi bảy tbước ngoài bề cao
Phía mái trước chỗ vào lầu lớn,
Đắp hình Louis XIV (mười bốn) lên ngai.[150] 1530
Có hàng rào sắt bao ngoài,
Lại trồng hoa cỏ tại hai bên lầu.
Thêm hai dảy nối sau đó tốt,
Hai dảy ngoài dài tột lầu sau.
Tòa ngang dảy dọc liên nhau, 1535
Tưởng trong các nước có đâu được bằng.
Kẻ nghịch đốt dảy đàng sau đó,
Công trăm năm thiêu có một ngày.
Lửa ôi! Nóng nảy lắm thay!
Chẳng thương tiếc ngọc, không hay vì vàng. 1540
Muốn coi đó vào đàng lầu giữa,
Dảy một bên chỗ cữa Denon.[151]
Lại lên than lớn thân trong,
Tới trên bước xuống lại phòng dài to.
Qua phía hữu bước vô phòng rộng, 1545
Khỏi bốn phòng tới chốn Đế vương.
Quày ra bước lại chỗ tròn,
Luôn chơn thẳng tới tại phòng Diane.[152]
Tới phòng nữa, bước sang phòng nữa,
Đi lần hồi tới cữa ngỏ vô. 1550
Nơi sơn thếp, chỗ phấn tô,
Bộn hình chạm trổ, hiếm đồ trơn tru.
Nếu trở lại đi vô phía tả,
Tới chỗ tròn thấy đá lót xinh.
Giữa vòng để một cái bình, 1555
Chung quanh vách vẻ những hình tốt tươi.
Qua bên hữu vào nơi phòng lớn,
Coi chung quanh những tượng vẽ hay.
Đi lần qua khỏi chỗ nầy,
Tới phòng vuông rộng thấy đầy tượng xinh. 1560
Hình người vẽ in hình người thật,
Kiển vật như kiển vật sống ngay.
Hết sức khéo, quá đổi hay,
Nhiều chơn dung quí của tay thợ tài.

Lầu đồ vẽ ấy dài đến sức, 1565
Để gần hai ngàn bức vẽ dầu.
Bốn muôn tấm vẽ đủ màu,
Gồm bao kiểu khéo, tóm thâu tài lành.
Chỗ đồ chạm coi thanh lịch lắm,
Có gần năm ngàn tấm tại đây. 1570
Kiểu vở khéo, chạm trổ hay,
Phân mười hai khoản đặt bày lớp lan.
Cữa Sully bước sang bên tả,[153]
Thì thấy nhiều hình đá chạm luôn.
Giỏi chừng ấy, khó thế hơn, 1575
Thua con người sống chút hồn mà thôi.
Ngã mé sông vào nơi sân giữa,
Day bước qua chỗ cữa hữu đây.
Mà coi mồ mã khéo xây,
Thảy bằng cẩm thạch chạm đầy chung quanh. 1580
Ấy những mả người danh tiếng lớn,
Có chỗ làm hình tượng bằng đồng.
Người dầu khuất, tiếng vẩn còn,
Tiếng van trong nước, người đồn khắp nơi.
Cữa Sully qua coi bên hữu, 1585
Trong năm phòng để tựu đồ nay.
Hình kia tượng nọ dẩy đầy,
Xét coi cách khéo đời nầy hơn xưa.
Phía bên hữu dưới tòa lầu trước,
Để nhiều đồ bên nước Asie,[154] 1590
Français hiệp với Anglais,[155]
Kiếm tìm đồ ấy đem về chia nhau.
Qua bên tả hàng lầu dài tiếp,
Coi đồ nơi Egypte đem về.[156]
Hai chằn tinh đá nằm kề, 1595
Đầu người mình thú coi ghê gớm kỳ.
Có một tượng thần kia đầu thú,
Lại nhiều hình tương tự đồ Mên.
Nhiều hòm bằng đá nên khen,
Dày công chạm trổ ra nguyên cái hòm. 1600

Có hài cốt khô rơm kỳ cuộc,
Khéo ướp nên mới được lâu dài.
Coi đồ rồi xét tới người,
Ra tuồng chơn chất hơn đời ta đây.
Amérique đồ bày coi kịch,[157] 1605
Của Alger một ít vậy kỳ.
Lần lên phía bắc lầu ni,
Coi tàu nhiều kiểu khó bì tải hay.
Bước qua khỏi phòng nầy đi nữa,
Bèn thấy đồ các chúa các vua. 1610
Đầy vật lạ, dẩy đồ xưa,
Phải là của báu kén lừa tay sang.
Những đồ ngọc đồ vàng đồ bạc,
Thứ bằng ngà bằng sắt bằng đồng.
Dỉa sành trắng, chén ly trong, 1615
Nước men khéo lạ, vẻ bông xinh kỳ.
Coi đủ hết giống chi ở đó,
Kể sao cùng vật nọ ra đây.
Lầu nầy mở cữa mỗi ngày,
Bắt từ chánh ngọ coi hoài tới thân. 1620
Le Palais-Royal rộng rải,[158]
Làm lầu cao ba dảy liên nhau.
Mặt tiền xây vách tường bao,
Có chừa nhiều cữa đi vào đông thay.
Luxembourg lầu xây ba dảy,[159] 1625
Mỗi mặt chừng trăm mấy thước dài.
Cho coi lầu ấy thường ngày,
Mười giờ được phép vào đây tới chiều.
Để dọc lầu rất nhiều tượng vẻ,
Hình gái trai nhiều kẻ trần truồng. 1630
Xinh thay tượng đá trắng trong,
Đàn bà ở lổ, đàn ông ở truồng.
Đền Bourbon bên sông Seine đó,[160]
Lúc ta vào đang có hội đồng
Vẹn vẻ ngoài, rực rở trong, 1635
Coi hình thần lớn, thấy phòng hội xinh.

Quai d’Orsay có dinh dảy tốt,[161]
Trong lúc loàn họ đốt cháy tan.
Ai gây oán, đó chịu oan,
Làm cho bỏ ghét tới tàn để danh. 1640
L’institut coi thanh lịch quá,[162]
Trên lầu tròn cột đá ngó xinh.
Trong ngoài chẳng thiếu chi hình,
Tỏ người tài cả đặng vinh hiển đời.
Còn dinh khác thấy thời bắt ngó, 1645
Tới lầu nào vào đó muốn coi.
Bao nhiêu của, mấy mươi đời,
Xem đồ làm đó, biết người làm sao.
Mười mấy bộ gồm bao việc chánh,
Bề thế coi nghiêm chỉnh oai nghi. 1650
Không khí giái, chẳng sanh kỳ,
Nhưng quyền tước cả, nên uy thế kỳ.
L’Hôtel de ville thì rộng lớn,[163]
Bia người tài thật bổn quán đây
Nhà vuông nội chỗ thành nầy, 1655
Tới hai mươi sở lầu đài dọc ngang.
La Banque de France chắn chắn,[164]
La Bourse đây giống hảng Marseille.[165]
La Monnaie hiếm Médailles,[166]
Chỗ làm tiền bạc, phòng bày lường cân. 1660
Gobelins nhuộm hàng dệt khảm,[167]
Đến đó coi nhiều tấm khéo hung.
Sở nhà in của Chánh chung,
Có hơn ngàn thợ đàn ông đàn bà.
Tại Sèvres có lò gốm đó,[168] 1665
Đồ kiểu coi ta khó sánh tài.
Lầu làm thuốc hút lớn thay,
Năm từng chứa thợ gái trai vài ngàn.
Đã trải thấy vua quan lầu các,
Tháng sáu đi coi hát chốn ni. 1670
Thấy chia con hát hai chi,
Nhứt thì ăn bổng, thứ nhì không lương.

Opéra cấp thường mười vẹo,[169]
Tiền chỗ thâu một triệu mấy hoài.
Hai trăm năm chục con người, 1675
Tiền công triệu rưỡi, dư xài bàu ăn.
Hai mươi triệu dùng mần sở ấy,
Hai ngàn người coi thấy thong dong.
Nhà làm vuông, nóc xây tròn,
Coi ngoài đẹp mắt, vô trong vui lòng. 1680
Chiều mồng sáu thấy trong giấy hát,
Guillaume Tell dậy giặc trừ hung.[170]
Vào coi ngồi ghế bọc nhung,
Êm tai đẹp mắt vui lòng sướng thân.
Thấy bọn gái áo gần tới vế, 1685
Ngở là tiên xuống thế khuấy đời.
Láo liên ngó, chuốm chím cười,
Mấy vàng cho đáng kiếp người chơi tiên.
Bày biển giả coi in biển thật,
Giả núi non chẳng mất chút nào. 1690
Rồi ra hiếm kép bộn đào,
Xứng vai nhằm lớp trông vào bắt mê.
Théâtre-Français cao lớn,[171]
Năm từng coi thật sướng mắt hung.
Cấp hai vẹo rưỡi cho dùng, 1695
Chỗ coi ngàn rưỡi thung dung con người.
Odéon chỗ coi ngàn bảy,[172]
Cấp mười muôn cho đấy xây xài.
Nhà Comique cũng rộng dài,[173]
Cấp hai vẹo rưỡi cho hoài mỗi năm. 1700
Nhà Lyrique thế làm cũng ngộ,[174]
Không thấy đèn mà tỏ sáng hung.
Cấp tiền mười vẹo chi dùng,
Chỗ ngồi ngàn bảy coi không hẹp gì.
Italien ấy thì thật khéo,[175] 1705
Cấp tiêu dùng một vẹo cũng nên.
Còn nơi chẳng có cấp tiền,
Mà hay cách điệu, nên khen hay kỳ.

La Gaîté, Folies coi lịch,[176]
Châtelet, Comiques nghe vui.[177] 1710
Nhiều nơi tới, ít muốn lui,
Phải chi ai cũng được coi như mình.
Nghe nói chuyện không tin bằng thấy,
Thấy một mình chẳng lấy làm vui.
Chơi rồi cắt cớ nói chơi, 1715
Ý ai cũng vậy, tánh người khác nhau.
Mấy nhà Cirques coi đâu cũng vậy,[178]
Hơn thua nhau chẳng mấy chút đâu.
Nhiều đều khôn tỏ đuôi đầu,
Coi làm phép thuật rất mau tay kỳ. 1720
Bullier, tối đi coi múa,[179]
Thấy gái trai trương lứa cặp nhau.
Đờn inh ỏi, trửng lao xao,
Khi ra dởn mặt, lúc vào vung trôn.
Mabille ấy coi còn hơn nữa,[180] 1725
Gái trai ôm nhảy múa kỳ khôi.
Bộn bàn chỗ, hiếm hiệm nơi,
Phân kỳ mùa hạ, cùng hồi mùa đông.
Coi đua ngựa tại Longchamp ấy,[181]
Thứ nhứt ăn được mấy vẹo quan. 1730
Đi chật cứng, tới nhộn nhàn,
Dưới sông thuyền chở, trên đàng xe đưa.
Chỗ Cluny đồ xưa coi ngộ,[182]
Đếm món ra cũng có chín ngàn.
Chỗ Thermes ấy ở bên đàng,[183] 1735
Qua coi binh trượng các quan cựu trào.
Trocadero vào nghe nhạc,[184]
Coi lầu xây bán ngoạt xinh thay!
L’Industrie đó rộng dài,[185]
Chứa hàng các hạt, cùng bày đồ Nam. 1740
Hàng lâm viện chia làm năm sở,
Cứ thường năm lo mở hội thi.

Bày phần thưởng, định phiên kỳ,
Chuộng người tài đức, khuyên ti thợ thầy.
La Sorbonne lầu xây rộng rải,[186] 1745
Chọn người thông để dạy bậc cao.
Kén tài chẳng lựa dòng nào,
Mặc ai muốn học thì vào học không.
Chỗ dạy tiếng phương đông hay quá,
Biết mấy thầy tài lạ hơn thường. 1750
Có nơi dạy đạo tỏ tường,
Có trường bát vật văn chương luật lề.
Có trường dạy làm nghề thầy thuốc,
Cầm thú coi hài cốt bày ra.
Người đàn ông với đàn bà, 1755
Thấy hồi mới tượng tới già chết thôi.
Chỗ trường khác tượng người bằng sáp,
Việc học hành coi sắp đặt hay.
Dạy nghề làm mụ được tài,
Dạy nguời chế thuốc mọi loài phải thông. 1760
Lycées đếm năm trường tại đó,[187]
Dạy học trò gần có năm ngàn.
Đôi mươi trường chánh vẻn van,
Học trò nuôi dạy một vàn mấy tên.
Trường sơ học dạy khuyên trẻ nhỏ, 1765
Bốn năm trăm là số nội đây.
Có ông thầy, có bà thầy,
Gái trai đi học tới ngoài tám muôn.
Trường Normale tại đường d’Ulm ấy,[188]
Tập nên thầy sai dạy các nơi. 1770
Vào coi dạy học hản hòi,
Món chi chuyên trị được rồi mới thôi.
Trường Saint-Cyr dạy người nghề vỏ,[189]
Dùng việc binh cho có kẻ tài.
Dạy người cơ xảo cho hay, 1775
Trước làm máy móc sau bày biến thêm.
Việc địa lý dạy xem nhiều cách,
Coi bày đồ kim thạch mọi loài.

Beaux-Arts cao lớn rộng dài,[190]
Dạy nghề chạm trổ vẽ vời tinh thông. 1780
Trường dạy hát dạy đờn lớn đại,
Học trò trai trò gái sáu trăm.
Bá công bày dạy trẻ làm,
Dạy nghề buôn bán khỏi lầm lỗi sai.
Có trường dạy người coi đàng biển, 1785
Dạy đóng tàu tập luyện thủy quan.
Tập nghề vỏ, dạy học văn,
Chánh kinh khuyên mến, dị đoan khử trừ.
Coi sao hết trường tư lập đó,
Có đâu bằng các chỗ hội đây. 1790
Hội các thợ, hội mấy thầy,
Tranh đua tài khéo, sánh tày lẽ khôn.
Viện sách lớn phân phòng rộng rải,
Để sách in được mấy triệu pho.
Vẹo ngoài bổn chép đem vô, 1795
Médailles hai vẹo ấy đồ nhiều nơi.[191]
Các chỗ khác vẹo ngoài cuốn sách,
Đồ vẽ vời nhiều cách thế hay.
Chữ đời xưa để đến nay,
Vẹn gìn bút tích mấy tay anh hào. 1800
Khâm thiên giám coi cao lớn trượng,
Nguyên đá xây coi sướng mắt hung.
Lên trên hết, xuống dưới cùng,
Ra ngoài xem máy linh lung xinh kỳ.
Vườn thảo mộc ta đi còn đó, 1805
Được vài muôn thứ cỏ cây đây.
Vẽ hình năm vạn trái cây,
Sách in sáu vạn gồm hay muôn loài.
Mười hai khoản để hài cốt đủ,
Các thứ người thứ thú thứ cầm. 1810
Loài khô chẳng biết mấy trăm.
Các loài ngâm rượu được năm ngàn ngoài.
Nhà nghề nghiệp rộng dài xinh tốt,
Để cân lường máy móc dẩy đầy.
Đồ nghề khéo, thế thần hay, 1815
Của người trí đặt cho tay tài làm.

Hai phủ doản mới kham trị đó,
Coi việc hình việc hộ tại đây.
Bốn ngàn tên lính tuần sai,
Năm ngàn giúp việc chơn tay hai đầu. 1820
Chỗ kinh đô gồm thâu một mối,
Từ thượng hình cho tới tòa sơ,
Có tòa xem xét của kho,
Có tòa gia dảm luật cho công bình.
Có tòa xét việc hình hộ hết, 1825
Có tòa sơ xử việc tầm thường.
Thợ thầy riêng có công đường,
Có tòa quân chánh, có thương chánh tòa.
Chỗ tù đó cùng nhà cấm cố,
Có phép quan mới mở cho coi, 1830
Chuyện rồi nhớ lại tức cười,
Thấy tòa lầu lớn tưởng thời dinh quan.
Như hồi trước ra đàng thấy điếm,
Với những khi vào tiệm café.[192]
Nhắm người xinh tốt tợ huê, 1835
Ai dè mặt ấy biết nghề ấy thôi.
Nói luôn thể nhà nuôi con thỏa,
Cho mặc đồ thưa quá mặt rây,
Trái chơi ấy, cục ngộ nầy,
Vui vầy vầy lại, lại vầy vầy vui. 1840
Nhiều nhà dưởng người đui kẻ bịnh,
Có chỗ nuôi quân lính tật nguyền
Chuẩn mười tám triệu quan tiền,
Mà nuôi hai vẹo mấy tên nghèo nàn.
Mấy nhà thương mùng giường sạch sẽ, 1845
Để dưởng nuôi người đẻ kẻ đau.
Làm ơn chẳng nệ tốn hao,
Tiền quan cũng có, nhà giàu cũng cho.
Nhà nuôi giúp người cô quả đó,
Đếm giường nằm cũng có mấy ngàn. 1850
Người điên cuồn, kẻ khó khăn,
Thấy chăn giữ kỉ, cho ăn uống thường.
Đi tới chỗ nhà trường câm điếc,
Ông l’Epée lập việc lớn to,[193]

Vào thăm con trẻ Bajot,[194] 1855
Cùng nhau viết chữ chuyện trò thiếu chi,
Quinze-vingts, Saint-Louis lập sẳn.[195]
Nuôi người mù ngày tháng cho qua.
Dạy bầy trẻ, dưởng kẻ già,
Con trai con gái đàn bà đàn ông, 1860
Tiệm cầm đồ của dùng đem chuộc,
Tính mỗi năm ba chục triệu ngoài,
Thợ thầy chắc lót dư xài,
Có nơi cho gởi chẳng sai vốn lời.
Có lập chỗ nuôi người công trận, 1865
Lầu đàng sau xây dáng tròn xinh,
Vào coi mả đá tốt kinh,
Mộ vua ở giữa, có hình đứng quanh,
Mấy trại lính coi canh giờ nhặt
Các kho tàn sắp đặt kỉ cang, 1870
Người dày trí, lại cả gan,
Vỏ bang chuyên tập, chiến tràng tranh công.
Chỗ chợ chánh tám muôn ngoài thước,
Tiền dùng làm sáu chục triệu quan,
Trên lợp kẻm, dưới cột gang, 1875
Nền nhà đá lót, vách ngăn sắt rào.
Đồ vật thực kể sao cho xiết
Người bán buôn chẳng biết bao nhiêu.
Chợ kia chợ nọ còn nhiều,
Chợ bông vàng trắng xanh điều xinh hung, 1880
Chỗ trử rượu mười muôn thước rộng,
Năm dảy nhà dài trượng lớn to,
Còn nơi vựa lúa tròn vo,
Bạn hàng làm giá rồi đồ chở sau.
Mấy chỗ giếng đào sâu quá sức, 1885
Tới năm trăm tám chục thước sâu,
Các nơi chứa nước lớn cao,
Trên nguồn dẩn đến đem vào uống chung.
Coi các hảng bạc hùng biết mấy,
Việc bán buôn xem thấy kinh đời, 1890

Đồ các nước, của mọi nơi,
Lúc xe chở tới, khi người chuyên đi.
Mấy đàng cống thật kỳ cổ khéo,
Ngồi cộ cho chúng kéo đi coi,
Coi phỉ chí, được sướng đời. 1895
Đời nguời ai kẻ đắc thời chẳng vui?
Nơi âm phủ xuống coi hài cốt[196]
Sáu triệu người để một hang dài.
Xương chất trong, sọ sắp ngoài,
Coi người nào đó, biết ai đây nầy? 1900
Đi coi chỗ để thây chết đuối,
Thấy đó rồi nghĩ tủi phận ai,
Để đây cho tới ba ngày,
Trông ai nhìn biết được thây chăng là!
Coi thổ mộ có ba chỗ lớn, 1905
Nghe thung reo mà ớn việc người.
Cảnh buồn bực, dạ ngậm ngùi,
Sống cho hết sức, thác rồi còn danh.
Coi chơi đã thị thành cùng hết,
Chừ phải toan tính việc trở về. 1910
Càng lâu đắm, càng thấm mê,
Mến người quen đó, nhớ quê hương mình.
Quan bộ thủy cho tin đặng rõ,
Ngày mười hai đến chỗ Toulon.
Trình tờ lảnh giấy cho xong, 1915
Đặng mười bốn xuống tàu Tonkin về.[197]
Vậy thì phải vưng nghe lời ấy,
Paris chẳng mấy ngày cùng.
Song còn coi lễ Chánh chung,
Đêm ngày mồng tám thiên trùng người ta.[198] 1920
Cờ tam sắc cửa nhà đều có,
Đèn pha ly các ngõ sáng trưng.
Đi nối gót, bước chen chưng,
Sau dồn tới trước, trước ngừng cản sau.
Không xe ngựa đi đâu được hết, 1925
Có ghe thuyền khôn xiết nổi đưa.

Phải làm cây sắt ngăn ngừa,
Coi chừng đủ số, liệu vừa chở thôi.
Ngoài Longchamp ra coi binh diểu,
Giám qu c ban cờ hiệu các cơ. 1930
Nghe kèn thổi, tới lảnh cờ,
Quan binh kéo kẹo mấy giờ mới thôi.
Đến chiều tối dạo chơi các chỗ,
Đốt cây bông mắt ngó xinh hung.
Tài khôn trí khéo vô cùng, 1935
Pháo làm nhiều cách lạ lùng lắm thay.
Đu nhiều thế đặt bày lạ mắt,
Khi xích nghe tiếng nhạc nhiệp nhàn.
Mấy nơi trông, các ngã đàng,
Đám reo cười dậy, chỗ đờn địch rân. 1940
Có công việc coi cần mẩn lắm,
Đến chơi bời lại sắm sửa siêng.
Cuộc vui chẳng có lưu liên,
Nôi đêm rồi sáng dọn liền như không.
Ngày mười một ruổi dong từ biệt,[199] 1945
Những người quen kẻ biết bấy lâu.
Giả từ chuyện vản mau mau,
Nguời đem mắt ngó, kẻ đau lòng dời.
Tới chiều tối ra nơi xe lửa,
Thấy huyện Hanh lụy ứa đôi hàng. 1950
Cùng nhau chúc chữ bình an,
Tới nơi từ giả, lên đàng thẳng xông.
Mười hai tới Toulon quen bộn,
Nghĩ ngơi rồi mười bốn xuống tàu.
Xuống tàu máy quạt chạy mau, 1955
Biển thời trông thấy một màu trong xanh.
Ghé các chỗ thị thành như trước,
Bốn mươi ngày về được thảnh thơi.[200]
Đi tới chốn, về đến nơi,
Cả nhà vô sự, mọi người bình yên. 1960
Cứ vui đạo thánh hiền noi giữ,
Vốn họ ta hai chữ cung-trường.
Sanh đêm trời sáng trăng trong,
Nên lời nói-đã thì lòng ghi theo.

Theo sách dạy khó nghèo bỡi số, 1965
Số khiến nên giàu có tại Trời.
Tại Trời song cũng có người,
Có người gặp vận đắc thời giàu to.
Giàu to cũng muốn cho có nữa,
Có nữa thì hằng bữa nhọc lo. 1970
Nhọc lo của cải bo bo,
Bo bo cũng bỡi Trời cho giữ tiền.
Giữ tiền được làm nên giàu có,
Giàu có người hay bố thí ra.
Thí ra cho kẻ bần gia, 1975
Bần gia cầu khẩn cho ta giàu đời.
Giàu đời được bỡi Trời xuống phúc,
Xuống phúc cho tới lúc cháu con.
Cháu con dỏi nối tông môn,
Tông môn tỏ rạng tiếng đồn gần xa. 1980
Gần xa biết lòng ta nhơn đức,
Nhơn đức nầy nhờ bực thánh hiền.
Thánh hiền vốn bỡi người nên,
Người nên thông thái tại chuyên học hành.
Học hành được mới sanh trí hóa, 1985
Trí hóa bày cũng lạ trong đời.
Trong đời lập thế thâu lôi,
Thâu lôi cho khỏi đánh người thế gian.
Người thế gian bảy ngàn vẹo mấy,
Mấy người tài bày máy móc ra. 1990
Ra công cứu giúp nguời ta,
Người ta ai cũng gọi là người hay.
Người hay ấy hay bày ra chuyện,
Ra chuyện làm vì miệng phải ăn.
Phải ăn phải ở có ngằn, 1995
Có ngằn có nết mới rằng người khôn.
Người khôn phải cho tròn nhơn ngãi,
Nhơn ngãi tròn mới phải giàu sang.
Sang đàng nói lắm nổi gan,
Nổi gan làm đến hai ngàn câu thôi![201] 2000

CHUNG.

Làm vầy sánh kẻ thả ngoài khơi,
Hết thảy đưa chân biết mấy nơi,
Bổn quấc về coi cồn vực đổi,
Như thuyền chạy thấy núi sông dời,
Tây Nam hai nước hòa ra thế,
Nhựt nguyệt đôi vầng chuyển vận đời,
Trình sự trải xem phong cảnh lạ,
Rồi đem đặt để đọc nghe chơi.

TRƯƠNG-MINH-KÝ.

Làm trai chí cả dễ buông khơi,
Hết dạ tìm tòi học tới nơi;
Bỗn truyện câu thơ biên sự thật
Như vàng như đá bút đâu dời,
Tây phương phong cảnh ra tiên cảnh,
Nhựt nguyệt quang hoa rạng dưới đời,
Trình việc giao du ngoài bốn biển;
Rồi công chuyện góp để xem chơi.

Hữu bộ y thượng hạ nguyên vận
Nhơn-sơn Huình đốc phủ chuyết họa.


Như tây thuật lại chuyện vời khơi.
Tây giái phong quang nhẩng mấy nơi,
Nhựt ký cảnh kia từng mắt thấy,
Trình đồ cõi ấy khắp chơn dời,
Của tiền há trải vui tình khách,
Trương chỉ đành toan để tiếng đời,
Minh bạch phương xa in trước mặt,
công làm dấu phải rằng chơi.

P. TRƯƠNG-VỈNH-KÝ,
Professeur de langues orientales.


Hễ biết nghề nào cũng ấm thân,
Bạc cờ trong cửa chớ đi gần,
Anh hùng mắc phải ra hèn hạ,
Phú quí lâm rồi lại khó khăn,
Quần áo tả tơi bè bạn nhạo,
Ruộng vườn hao hớt chị em dằn,
Chẳng tin thì ngó trong làng xóm,
Trước mắt suy vi biết mấy thằng!

Muôn việc tại Trời chớ rán cầu,
Mựa đừng đáu đáu dụng lòng âu,
Đủ cơm ba bữa mơ chi quấy,
Gặp gió một buồm dễ khá thâu,
Thêm việc việc thêm sao rảnh đặng,
Hại người người hại chẳng xong đâu,
Rối nhà nên gở không nên kết,
Ai nấy day đầu ngó lại sau.


Khéo nhàm nhọc lắm vụng nhàm nhàn,
Lành trách yếu mền dữ trách ngoan,
Giàu mắc ghét ghen nghèo mắc dể,
Siêng rằng ham hố kiệm rằng khan,
Mắt xem chưa rõ đua cười dại,
Máy thấy mà làm lại gọi gian,
Đều ấy lo luờng cho khỏi đặng,
Làm người khỏi đặng cũng khôn toan.


Chẳng cầu đàng cả khỏi mê đồ,
Dẩu có tài lành há trượng phu,
Trăm tuổi thoáng qua dường lửa đá,
Một đời đi lại bọt mưa mù,
Chỉn ham lợi lộc lo vinh hiển,
Bao quản hình dung vẫn ốm o,
Thử hỏi chất vàng như đống núi,
Thác rồi mua đặng sống chăng ru?


Chớ đến châu nha với huyện nha,
Khuyên ngươi tiện tặn cứ làm ra,
Giếng ao chứa nước tua ngừng nắng,
Ruộng đất siêng cày đủ giúp nhà,
Dạy cháu dạy con nghề khá dạy,
Trồng dâu trồng gía ít trồng hoa,
Chuyện chi quấy phải đừng thèm tưởng,
Khát uống suối trong muộn uống trà.

NỮ NHI CA

Ăn vóc, học hay,
Một ngày một lớn.
Bớt giỡn bớt chơi,
Cười cười, nói nói,
Khoe giỏi khoe khôn, 5
So hơn tính thiệt,
Cướp việc tranh công,
Ăn chùng nói vụng,
Làm nũng khóc la,
Nghịch cha nghịch mẹ, 10
Hiếp trẻ đánh em,
Nhem thèm sắp nhỏ,
Điều có nói không,
Đòi bồng đòi ẵm,
Đi tắm không kỳ, 15
Mặt lỳ mày lợm,
Đóng khớm, đóng hờm,
Đổ cơm đổ cháo,
Vọc gạo giỡn tiền,
Bông kiềng vòng chuỗi, 20
Đòi cổi đòi đeo,
Leo trèo nhảy múa,
Chưởi-rủa rầy-rà,
Gần xa nghe tiếng,
Làm biếng ngủ ngày, 25
Từ rày bỏ hết,
Có nết có na,
Thờ cha kính mẹ,
Thương trẻ mến em,
Dưới êm trên thuận, 30

Đi-đứng dịu-dàng,
Ra đàng tề-chỉnh,
Cung-kính khiêm-nhường,
Kẻ thương người mến,
Ai đến hỏi chào, 35
Có sao nói vậy,
Mắt thấy tai nghe,
Còn e lầm lỗi,
Phước tội chẳng chừng,
Nên đừng nói bậy, 40
Kẻ vạy người ngay,
Mặc ai phải chẳng,
Ngay thẳng thiệt thà,
Việc nhà lần học,
Kẻ tóc chơn tơ, 45
Ngày giờ phải tiếc,
Cứ việc làm ăn,
Cho bằng chúng bạn,
Việc bán việc buôn,
Học khôn học khéo, 50
Thêu tỉu vá may;
Hằng ngày ra sức,
Bánh mức nem bì,
Món chi cũng giỏi,
Mới gọi gái lành, 55
Rạng danh thục nữ,
Quân tử hảo cừu,
Danh lưu hậu thế,
Dạy để mấy lời,
Phen người giồi ngọc, 60

Chợ-lớn, ngày 11 juin 1888.

Mậu-tí niên, ngủ ngoạt sơ nhị nhựt.



TỰ

Như xưa lắm kẻ dạo xa khơi,
Tây vức đi về đã tới nơi,
Nhựt dạ xây vần trời đất đổi.
Trình đồ qua lại nước non dời,
Của kia vật nọ còn roi dấu,
Trương trước tờ sau cũng để đời,
Minh bạch những đều con mắt thấy,
tên cho biết phải chăng chơi.

TRƯƠNG-MINH-KÝ.

   




Chú thích

  1. Tarn = Ta. —
  2. Alger = An-giê. —
  3. Paris = Bari. —
  4. 19 Mars 1880. —
  5. Thước nói đây, không phải là thước mộc, cũng không phải là thước hai mươi sáu, hai mươi bảy đồng tiền ta, mà là thước 50 đồng tiền điếu mới ban dùng tại Nam-kỳ đây. Thước tây kêu là mètre.
  6. 21 mars. —
  7. Malais = Ma-lê.
  8. Anglais = Ăn-lê. —
  9. canh-thìn, 1820. —
  10. Malabar = Ma-la-ba.
  11. Chùa ông Hược, chùa bà Mả-châu ở tại đàng Mai-sơn tại Chợ-lớn.
  12. 21 mars. —
  13. Sumatra = Xu-ma-tra. —
  14. Hollande = Hô-lăn. —
  15. Ceylan = Xê-lăn. —
  16. Pointe-de-galles = Boán-dơ-gan. —
  17. bière = bi-e, rượu mạch nha.
  18. Aden = A-đên. —
  19. Café = Ca-phê. —
  20. 14 avril. —
  21. Suez = Xu-ê. —
  22. De Lesseps = Đơ-lê-xêp.
  23. Port-Said = Bo-xa-ít.
  24. 16 avril.
  25. Candie = Căn-đi. —
  26. Ionienne = Iô-nhiên. —
  27. Messine = Mê-xinh. —
  28. Sicile = Xi-xinh. —
  29. Stromboli = Trom-bô-li. —
  30. Corse = Cô.
  31. Toulon = Tu-lôn
  32. Marseille = Ma-xây.
  33. Le Calvaire = Lơ-can-ve. —
  34. Saint-Joseph = Xanh-giô-dep. —
  35. Du mont = Đu-mông.
  36. Mont-Carmel = Mông-ca-men. —
  37. De la Garde = Đơ-la-gát. —
  38. Marie = Ma-ri. — Jésus = Giê-du.
  39. La Bourse = La-buốc. —
  40. Les Docks = Lê-đốc.
  41. Sante-Marie = Xanh Ma-ri. — Belsunce = Ben-xông. —
  42. d’Aix = Đếch.
  43. Longchamp = Lông-săn. —
  44. Afrique = A-phích.
  45. Juifs = Giếp. —
  46. Casba = Cát-ba. =
  47. Sant-Augustin = Xanh-tô-gut-tăn. —
  48. Arabe = A-ráp.
  49. Mosquée = Mốt-kê, là chùa Arabe.
  50. Français = Phansa. =
  51. Hassam = Hà-xêm. —
  52. Coste charles = Cốt-sa. —
  53. Maure = Mo. —
  54. Major = Ma-gio.
  55. Savon = Sà-vông, dùng như các lồi vậy.
  56. d’Isly = Đích-ly. —
  57. Bugeaud = Bu-giô. —
  58. Varennes = Va-rên.
  59. Chartres = Sát. —
  60. Mahon = Ma-hông. —
  61. Malakoff = Ma-la-cóp. —
  62. Square = Qua; tiếng Anglais kêu vườn bông nhỏ có rào chung quanh; ở chỗ thiên hạ hay tụ hội chơi bời.
  63. Marengo = Ma-răn-gô. —
  64. d’Essai = Đê-xê —
  65. Charles-quint = Sa-căn.
  66. Mồng 6 tháng tư = 14 Mai.
  67. Josselme = Giô-xem. —
  68. Bùi-quan-Nhơn, Lê-bá-Khanh, Ngô-thế-Khương, Trần-hữu-Học, Đinh-văn-Xuyến, Nguyễn-văn-Khuôn, Nguyễn-văn-Mây.
  69. Lyon = Ly-ông.
  70. Mồng mười tháng năm = 17 juin.
  71. Bastille = Ba-ti. —
  72. Carrousel = Ca-ru-giên. —
  73. Château d’eau = Sa-tô-đô.—
  74. Châtelet = Sa-tơ-lê.
  75. Concorde = Con-co. —
  76. l’Etoile = Lê-toan. —
  77. Louvois = Lu-voa. —
  78. Royale = Roa-dan. —
  79. Eugène = Ơ-den. —
  80. Michel = Mi-sên. —
  81. Saint-Georges = Xanh-gio. —
  82. Sulpice = Xun-bích. —
  83. Vendôme = Văn-đôm. —
  84. Napoléon = Na-pô-lê-ông.
  85. Trône = Trôn. —
  86. Victoires = Vich-toa. —
  87. Saint-Denis = Xanh-đơ-ni. —
  88. Louis = Luy. —
  89. Saint — Martin = Xanh-ma-tăn. —
  90. Henri IV = Hăn-ri-cách. —
  91. Ney = Nê. —
  92. L’arbre sec = La-bơ-xêch. —
  93. Cuvier = Cu-vi-ê.
  94. Gaillon = Ga-dông. —
  95. Grenelle = Gơ-nen. —
  96. Seine = Xên. — Marne = Ma. —
  97. Innocents = I-nô-xăn.
  98. Molière = Mô-li-e. —
  99. Tuileries = Tuynh-lơ-ri. —
  100. Luxembourg = Lúc-xăn-bua. —
  101. Léda = Lê-đa. —
  102. Médicis = Mé-đi-ci.
  103. 29 tháng tư = 6 juin. —
  104. Chaigneau = Sê-nhô. —
  105. Vannier = Va-ni-ê. —
  106. Champs-Elysées = Săn-é-ly-dê.
  107. Mất chú thích.
  108. Mất chú thích.
  109. Mất chú thích.
  110. Mất chú thích.
  111. Mất chú thích.
  112. Passy = Ba-xi. —
  113. Autueil = Ô-tơi. —
  114. Neuilly = Nơi-di. —
  115. Vencennes = Văn-xên. —
  116. Chaumont = Sô-mông.
  117. Notre-Dame = Nô-tơ-đam. —
  118. Adam = A-đăn.
  119. Jésus = Giê-du. —
  120. Saint-Bernard = Xanh-be-na. —
  121. Sainte-Chapelle = Xanh-sa-ben. —
  122. Sainte-Clotilde = Xanh-lô-tinh. —
  123. Saint-Denis = Xanh-đơ-ni. —
  124. Saint-Etienne = Xanh-tê-chen. —
  125. Saint-Eustache = Xanh-tơ-ta. —
  126. Saint-Eugène = Xanh-tơ-gien. —
  127. Panthéon = Băn-tê-ông.
  128. Saint-Germain = Xanh-gie-măn. —
  129. Saint-Jean = Xanh-dăn. — Saint-Jacques = Xanh-giăc. —
  130. Saint-Joseph = Xanh-giô-dep. —
  131. Saint-Laurent = Xanh-lô-răn. —
  132. Saint-Gervais = Xanh-giê-vê. —
  133. Saint-Louis = Xanh-luy. —
  134. Saint-Merri = Xanh-mê-ri.
  135. Saint-Médard = Xanh-mê-đa. —
  136. Madeleine = Ma-đơ-len. —
  137. Nicolas = Ni-cô-la. —
  138. Notre-Dame = Nô-tơ-đam. —
  139. Saint-Paul = Xanh-bôn. — Saint-Louis = Xanh-luy. —
  140. Saint-Pierre = Xanh-bi-e. —
  141. Saint-Roch = Xanh-rôc. —
  142. La Sorbonne = La-xo-bôn.
  143. Saint-Snlpice = Xanh-xun-bich —
  144. Trinité = Tri-ni-tê. —
  145. Val-de-grâce = Van-đơ-gac. —
  146. Dupuis = Đu-buy. —
  147. Des Michels = Đê-mi-sên. —
  148. Versailles = Ve-xay. —
  149. Le Louvre = Lo-lu-vơ.
  150. Louis = Luy. —
  151. Denon = Đơ-nông. —
  152. Diane = Đi-an.
  153. Sully = Xu-ly. —
  154. Asie = A-di. —
  155. Français = Phan-sa. — Anglais = An-lê. —
  156. Egypte = Ê-giếp.
  157. Amérique = A-mê-rich. —
  158. Le Palais Royal = Lơ-ba-lê-roa-dan. —
  159. Luxembourg = Lu-xăm-bua. —
  160. Bourbon = Bua-bông.
  161. Quai d’Orsay = Kê-đo-xê. —
  162. L’Institut = Lăn-ti-tu.
  163. L’hôtel de ville = Lô-ten-dơ-vinh. —
  164. La Banque de France = La-ban-cơ-đơ-phan. —
  165. La Bourse = La-buốc. —
  166. La Monnaie = La-mô-nê. —
  167. Gobelins = Gô-bơ-lăn. —
  168. Sèvres = Xe-vơ.
  169. Opéra = Ô-bê-ra. —
  170. Guillaume Tell = Ghi-dôm-ten. —
  171. Théâtre-français = Tê-ác-tơ-phan-xê. —
  172. Odéon = Ô-đê-ông. —
  173. Comique = Cô-mích. —
  174. Lyrique = Ly-rich. —
  175. Italien = I-ta-liên.
  176. La Gaîté = La-ghê-tê. — Folies = Phô-li. —
  177. Châtelet = Sa-tơ-lê. — Comiques = Cô-mích. —
  178. Cirques = xiết. —
  179. Bullier = Bu-li-ê. —
  180. Mabille = Ma-binh. —
  181. Longchamp = Lông-săn. —
  182. Cluny = Lu-ny. —
  183. Thermes = Tem. —
  184. Trocadero = Trô-ca-đê-rô. —
  185. L’Industrie = Lăn-đut-tri.
  186. La Sorbonne = La-xo-bôn. —
  187. Lycées = Ly-xê. —
  188. Normale = No-manh. — d’Ulm = Đơn. —
  189. Saint-Cyr = Xanh-xia.
  190. Beaux-arts = Bô-da. —
  191. Médailles = Mê-đay.
  192. Café = Ca-phê, là chỗ quán rượu. —
  193. l’Epée = Lê-bê.
  194. Bajot = Ba-do. —
  195. Quinze-vingts = Ken-dờ-văn, là mười lăm lần hai mươi = ba trăm; chỗ nuôi ba trăm người bịnh. — Saint-Louis = Xanh-luy.
  196. L’ancienne barre de l’Enfer, cửa cổng cũ đàng âm phủ. —
  197. Tonkin, Tonquin = Đông-kinh, nhằm ngày 20 juillet. —
  198. 14 juillet.
  199. Mười một tháng năm = 18 juillet. —
  200. Hai mươi ba tháng bảy.
  201. Trương 8 câu 49, buồn = buồm. — T. 11 c. 170, xống = xuống. — T. 13 c. 223, qua = quá. — T. 26 c. 747, sót = sóc. — T. 29 c. 855, đắc = dắc — T. 37 c. 1161, qna = qua. — T. 48 c. 1528, tbước = thước.


Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.