Nhị độ mai/II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nhị độ mai của không rõ
II. Mai Lương Ngọc nương náu ở nhà họ Trần

Lư-công mạo chỉ truyền ra,
Đến Thường-châu nã một nhà họ Mai.
Ruổi mau lệnh-tiễn hỏa-bài,
Mấy ngày thoắt đã tới nơi châu Tường.
Còn đương trách cứ phủ-đường,
480Mỏng tai may có một chàng Đồ Thân.
Đêm khuya kíp vội dời chân,
Mách công-tử với phu-nhân liệu đường.
Mẹ con xiết nỗi kinh-hoàng,
Cùng xuôi nỗi thảm, vội-vàng trốn đi.
Chia đường tìm chốn trợ thì,
Đỡ khi gấp rút, đỡ khi vận cùng.
Phu-nhân sang đất Sơn-đông,
Có em lỵ đó cũng trong đồng-bào.
Đồ Thân lòng tiết nghĩa sao,
490Tưởng ân-nghĩa trước xin theo đi cùng.
Sửa-sang hành-lý vừa xong,
Một công-tử với Hỉ Đồng đi ra.
Nghi-trưng huyện ấy chẳng xa.
Nhạc-thân lỵ đó tên là Hầu Loan.
Ngại-ngần gặp bước gian-nan,
Người bâng-khuâng mẹ, kẻ bàn-hoàn con.
Trời đà mở lối sinh môn,
Rồng về biển, cọp về non bao giờ ?
Phủ-binh khen khéo hững-hờ,
500Canh năm vừa kéo đến nhà họ Mai.
Trước sau nào có một ai,
Khói nhà lạnh ngắt, tiếng người vắng tanh.
Sai-nha thấy thế nghi tình,
Bảo nhau tầm-nã chung quanh trong làng.
Phu-nhân phận ấy đã cam,
Cũng may được chốn nhà em nương mình.
Thương thay công-tử tuổi xanh,
Long-đong mấy hội, gập ghềnh mấy phen.
Từ khi thầy tớ xuống thuyền,
510Thuận giòng thủy-đạo tới miền Nghi-trưng.
Tới nơi lên bộ dùng-dằng.
Vào nơi phạn-điếm hỏi chừng trước sau.
"Lạ-lùng xin tỏ cho nhau,
Huyện-quan có phải họ Hầu tên Loan ?"
Nhà hàng thấy nói hỏi-han,
Trình rằng: "Thôi chớ hỏi bàn làm chi.
Lòng người ăn xổi ở thì,
"Nặng bên danh-lợi, nhẹ bề thân-hơi.
Cho hay giàu điếc sang đui,
520Tìm vào trước đã lắm người ra không."
Nghe thôi công-tử ngại-ngùng,
Ngồi bên, khen gã Hỉ Đồng mỏng tai.
Đêm khuya ghé lại rỉ lời:
"Lòng người nham hiểm, thói đời viêm-lương.
Mới rồi nghe chuyện nhà hàng,
Họ Hầu đây cũng là phường lăng-nhăng.
Mà ta lánh nạn băng chừng,
Chúng tôi dại dạ, nghĩ đừng vội tin.
Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,
530Sợ chi muôn một chu-tuyền làm sao ?
Tôi xin thay mặt trước vào,
Nghe tình-hình ở thế nào thử xem.
Bằng ra lòng cá dạ chim,
Tôi đương nạn ấy, người tìm nẻo xa."
Túi hành-lý gửi vào nhà,
Tớ thầy đổi áo bước ra lên đường.
Lạ-lùng lẫn-lộn hèn sang,
Hỉ Đồng đi trước, để chàng theo sau.
Đồng đà liệu trước mưu sau,
540Mua tì-sương đã buộc đầu đai lưng.
Bước vào cửa huyện Nghi-trưng.
Để công-tử chực nghe chừng một nơi.
Cậy người môn lại thưa lời,
Đưa tin bán-tử họ Mai sang hầu.
Truyền cho vào tận trong lầu,
Hầu Loan hỏi hết gót đầu vân vân.
Hỉ Đồng thưa chuyện xa gần,
Nỗi nhà oan khốc, nỗi thân lạc-loài.
Thoắt thôi giả cách sụt-sùi,
550Nào hay Hầu-thị là người bạc đen.
Dứt lời trở mặt quở liền:
"Tội-nhân ai dễ có quyền dám dong ?
Con ta yểu-điệu khuê-phòng,
Có Tây-tử đó, thiếu đông-sàng nào !
Ở đây mười mắt trông vào,
Rõ-ràng án ấy, tha sao cho đành."
Kíp truyền ngục tốt giao canh,
"Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi !"
Bấy giờ công- tử đứng ngoài,
560Trông vào đã thấy tơi-bời điệu ra.
Quá thương dường muốn hỏi qua.
Hỉ Đồng liếc mắt xa đưa ý chàng.
Trong mình sẵn gói tì-sương,
Giở ra nuốt ực quyết đường quyên-sinh.
Nghĩ người con trẻ thương tình,
Nghĩa thầy-tớ nặng xem thân mình không.
Tưởng là Mai-thị thân vong,
Giả hình ai biết Hỉ Đồng là ai ?
Một đoàn ngục tốt tơi-bời,
570Khiêng ra cửa bắc, táng ngoài đồng không.
Mai-sinh theo hút xa trông,
Viếng thăm làm dấu, mới phong nên phần.
Nghĩ đi nghĩ lại tần-ngần,
Tay không đất khách, một thân quê người.
Biết cùng ai tỏ khúc nôi,
Dở-dang hai lẽ, tới lui khó lòng.
Bước lần bỗng thấy gần sông,
Xuống thuyền nhờ để tìm vùng lánh xa.
Trọn ngày đến bến, lên bờ,
580Trời hôm vào đấy là chùa Thọ-am.
Than rằng: "Tội báo cho cam,
Thế này trời hãy còn làm đến đâu.
Họ Lư tầm-nã còn lâu,
Tấm thân đã biết về sau thế nào ?"
Trong lưng sẵn giải lụa đào,
Cởi ra, sinh đã buộc vào cành cây.
Thương ôi ! Sao khéo đang tay !
Thân này đã quyết với dây ấy rồi.
Trời còn cứu kẻ anh-tài,
590Trong chùa bỗng có một người bước ra.
Lòng lành thấy sự oan-gia,
Trở vào bạch lại sư-già trước sau.
Sư ra dạy cởi xuống mau,
Khương-thang kíp đổ, giờ lâu tỉnh dần.
Thấy người trạng mạo văn-nhân,
Quá thương sư mới hỏi gần hỏi xa.
Nỗi mình đâu dám giở ra,
Sinh bèn chống chế, kêu-ca liệu lời.
Rằng: "Con chút phận tôi đòi,
600Giữ đồ thầy để mất vài bốn bao.
Trở về nghĩ chẳng tha nào,
Cực mình nên phải quyết liều quyên-sinh.
Sư rằng: "Cửa bụt thênh-thênh,
Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.
Nhà chùa công việc cũng đầy,
Dẫu rằng lau án, tưới cây cũng là,
Vả trông ra dáng con nhà,
Sẵn nghiên bút viết một vài tờ xem.
Dẫu rằng xấu tốt chẳng hiềm,"
610Sinh bèn đề chữ "Thọ-am tự-thuyền".
Sư rằng: "Này bút thiên-nhiên,
Lọ tìm Vũ-kiếm, lọ khen Lan-đình."
Phòng văn giao mặc viết kinh,
Vườn hoa lại phó một mình sửa-sang.
Sức người như giúp hơi dương,
Một vườn tươi-tốt bằng dường thêm xuân.
Những mong bóng Phật nương thân.
Hay đâu bỗng chốc lương-nhân giắt vào.
Nỗi sư nào biết đâu nào,
620Chẳng là tên gọi Nhật Cao họ Trần.
Thám hoa võ-cử xuất thân,
Ba nơi tọa-trấn mấy lần đổng-binh.
Thờ-ơ áng lợi quyền danh,
Vui lòng tuyền-thạch gửi mình thuyền-am.
Trần Đông Sơ ấy là em,
Một ngày thong thả mới tìm sang chơi.
Anh em kể-lể lôi-thôi,
Có khi nhắc chuyện họ Mai khóc thầm.
Mai-sinh riêng dạ nghĩ ngầm,
630Xem trò-chuyện ấy, biết tâm-tích rồi.
Hai ông tìm hứng mua vui,
Giắt tay, sánh bước, chân dời vườn sau.
Xem hoa vừa ý, gật đầu,
Trình anh, mới kể mấy câu nằn-nì:
"Mười năm theo việc vương-kỳ,
Sân Đào mấy lớp, Đông-ly bỏ rèm.
Gốc cằn, cỗi rậm, khó xem,
Cỏ cây ví với am-thuyền kém xa.
Tiểu đây kể khéo có thừa,
640Nhà em bên ấy tạm nhờ một tay."
Sư rằng: "Anh cũng là may,
Ngày xưa được chú tiểu này bỗng không.
Họ Vương tên gọi Hỉ Đồng,
Bút nghiên tay giỏi, nghi-dung con nhà.
Việc quen sửa cảnh, vun hoa,
Cho về bên ấy nương-nhờ cũng hay !"
Mai-sinh bèn lạy tạ thầy,
Theo về Trần-phủ một giây đến nhà.
Trần-công cười nói lôi-la;
650Đòi công-tử với cùng là phu-nhân.
Tiểu-thư cũng gọi đến gần,
Rằng: "Hôm nay buổi dời chân tham thuyền.
Xin về được gã thiếu-niên.
Cảnh hoa việc biết, bút-nghiên nghề nòi."
Những xem phong-dạng con người,
Một nhà ai cũng một lời khen lao.
Mai-sinh đành phận biết sao,
Khi ra viết thiếp, khi vào sửa hoa.
Cửa người ngày tháng lân-la,
660Một mình riêng những xót-xa sự mình.
Sinh-ly xa cách huyên-đình,
Một cây bóng ngả mấy cành tang-du.
Sơn-đông non nước mịt-mù,
Niềm thương nỗi nhớ biết hồ có nguôi.
Nghi-trưng một nắm cát vùi,
Vì ai nên nỗi thiệt-thòi đến ai.
Sau này dù nhận có người,
Nghĩa kia biết có đền-bồi được chăng ?
Thành sầu cao ngất tầng tầng,
670Một vườn ngày gió đêm trăng thẫn-thờ.
Hay đâu con tạo lọc-lừa,
Chen vòng hắc vận, trao tơ xích-thằng.
Có phen bên gió dưới trăng,
Buổi man-mác bóng, cơn văng-vắng người.
Trong vườn tha-thướt dường ai,
Xem hoàn đổ lá, giục đòi hái hoa.
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành-vạnh nguyệt, tóc ngà-ngà mây.
Lập-lòa mớ đính mớ thay,
680Sắc xiêm hoa dệt, nét giày phượng thêu.
A-hoàn một lũ nối theo,
Quạt tha-thướt phẩy, lò dìu-dặt mang.
Xa xa thoang-thoảng mùi hương,
Mai-sinh trông liếc rõ-ràng tiểu-thư.
Mối tình buộc lấy khư-khư,
Hồn bâng-khuâng quế, phách thờ-thẫn mai.
Của đâu trêu-ghẹo chi ai,
Ấy người cung Quảng, hay người đài Dương.
Tấc riêng, riêng những mơ-màng,
690Chữ tư đề dưới chữ tương ngày ngày.
Nghĩ mình lưu-lạc đã dày,
Chút niềm tâm-sự dám bày cùng ai.
Lại mang cái tiếng tôi-đòi,
Nhân-duyên trời có chiều người cho chăng ?
Thu đông trải mấy gió trăng,
Bông đào chợt đã báo chừng nửa xuân.
Một vườn cảnh-vật tiên-tân,
Mõ xa cành biếc, kệ gần lưỡi oanh !
Trần công nhân buổi dạo quanh,
700Đầy vườn thấy nở chật cành hoa mai.
Tính ngày mai, tối mười hai,
Truyền làm tiệc rượu đặt nơi hoa đình.
Vào trong khi bất thình lình.
Phu-nhân xem thấy ra tình không vui.
Rằng: "Vườn ta cảnh ưa người,
Sắc ông sao bỗng kém tươi, thêm sầu ?"
Ông rằng: "Chẳng đánh mà đau,
Ngày mai sực nhớ giỗ đầu Mai-huynh.
Nghĩa bằng-hữu, bậc trung-trinh,
710Thấy hoa mai, bỗng động tình xót ai."
Sáng ngày mượn tiếng thưởng mai,
Đem lòng thành-kính, viếng người tinh-anh:
"Có thiêng chăng nhẽ Mai-huynh !
Chớ nề u-hiển, thấu tình anh em.
Bây giờ kẻ khuất đã cam,
Kẻ còn giong-ruổi cho tìm thấy tôi."
Trông hoa lại nhớ mấy lời :
"Họ Mai còn chút lạc-loài nên thương.
Phỏng ngày sau có ra tuồng,
720Thì hoa mai nở bội thường hơn xưa."
Hóa-nhi khen khéo thờ-ơ,
Bởi đâu một trận gió mưa đêm trường.
Sáng mai trông lọt bốn tường,
Cành hoa dưới đất, mùi hương trên trời.
Trần-công thấy chẳng nên lời.
Thương tình bạn, giận sự đời, ngổn-ngang.
Gác ngoài phú-quí một tràng,
Mũ-ni, tràng-hạt, quyết đàng xuất-gia.
Phu-nhân, công-tử vào thưa:
730"Xưa nay mưa gió rụng hoa là thường.
Làm chi nhọc bụng lo-lường,
Tuổi già nhà vắng, thêm đường dở-dang."
Ông rằng: "Thôi chớ bàn ngang.
Một lời nói, dẫu nghìn vàng đổi sao !"
Cả nhà xiết nỗi thảm-sầu,
Tiểu-thư lập chước thưa sau giãi-bày.
Rằng: "Xin đợi lại mấy ngày,
Cầu trời khấn Phật hoa này lại tươi."
Ông rằng: "Thực có như lời,
740Mai hai độ nở mới dời lòng ta."
Tiểu-thư ra trước vườn hoa,
Khẩn năm bảy lượt, lạy và bốn phen.
Lòng thành thấu cửu-trùng-thiên
Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ.
May đâu đến bữa thứ ba,
Mai-sinh thức dậy, bấy giờ còn khuya
Hương đâu phưng-phức tứ bề,
Hoa đâu san-sát đầy khê một vườn.
Tấm lòng mừng-rỡ như son,
750Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài.
Đề rồi bẻ một cành mai,
Trao con đòi, cậy đưa lời Trần-công.
Một nhà thấy sự lạ-lùng,
Trước sau lũ-lượt đều cùng tới coi.
Trần-công rằng: "Sự tỏ mười,
Chắc rằng Mai-thị còn người làm nên !"
Nỗi tu gác bỏ một bên,
Truyền đem tửu quả đặt lên hoa-đình.
Trên bày bài-vị Mai-huynh,
760Bấy giờ tình cảnh Mai-sinh thực là.
Tìm nơi đình-tử xa xa,
Trông ngay trước mộc-vị cha, thở dài.
Vô tình ai biết là ai,
Tiểu-thư liếc mắt đưa chơi biết tình.
Sinh xem biết ý chân-thành,
Nỗi nghi dường đã bớt canh-cánh lòng.
Nhớ tên hiệu chữ Mai-công,
Đề vào mảnh giấy dán trong nắp hòm.
Ra vào giấu-giếm, nom-dòm,
770Gọi là tiện chút sớm hôm phụng-thờ.
Trần-công đi lại xem hoa,
Truyền đòi công-tử tên là Xuân-sinh.
Rằng: "Ta xưa những ở Kinh,
Chẳng hay con đã học-hành tiến chưa.
Rày nhân nhị độ mai hoa,
Con đề tức cảnh một thơ tiến trình."
Còn đương khuyên-bảo Xuân-sinh,
Trông lên đã thấy bên bình có thơ.
Trần công đòi hỏi bấy giờ,
780Mới hay đề đó là thơ Hỉ Đồng.
Khen câu ngọc đúc vàng ung,
Vóc trong miệng, gấm trong lòng vẽ nên.
Xuân-sinh thấy sẵn thơ trên,
Cũng theo vận ấy đề liền bốn câu.
Trần-công vừa ý gật đầu,
Tiểu-thư lại thấy ở đâu đến gần.
Dạy rằng: "Nữ-tử, văn-nhân,
Theo đòi con cũng họa vần thử xem."
Tiểu-thư cầm bút vâng lời,
790Bên tường cũng vịnh một bài nối sau.
Khen tài nhả ngọc phun châu,
Ba vần già-dặn, bốn câu thanh kỳ.
Yên xong , ông trở ra về,
Cùng phu nhân mới nằn-nì một hai :
"Hỉ Đồng là kẻ có tài,
Ở đây chớ để tôi-đòi xem khinh."
Mai-sinh thui-thủi bên đình,
Một mình tính quẩn lo quanh việc nhà.
Xưa nay nghe tiếng đồn xa,
800Phồn hoa thứ nhất ấy là châu Dương.
Hôm nay nhân buổi thanh-lương,
Rời chân xem thử phố-phường những sao.
Trập trùng quán thấp lầu cao,
Tạ, Vương mấy chốn, Nguyễn, Đào mấy nơi.
Xe lừa dù có chen vai,
Kìa người đại-cổ nọ người phú-thương.
Màn che mái, gạch ken đường,
Bầu nhà vàng nuột, rèm hàng lưu-ly.
Khắp người viễn khách cư kỳ,
810Tây-dương chung cảng, Cao-ly riêng hàng.
Lớp ngoài một dãy trường-giang,
Tàu chen mũi đỗ, thuyền giương buồm về.
Chài lan san-sát lá tre,
Chiếc đua máy đẩy, chiếc kề bến neo.
Những là mến cảnh noi theo,
Khi về vừa bóng xế chiều tới nơi.
Phòng riêng đã vắng tăm hơi,
Nắp hòm bỏ ngỏ, vị-bài thấy không.
Tìm sau tìm trước lung-tung,
820Nghĩ riêng lòng những giận lòng đòi cơn.
Ai hay trong lúc du-quan,
Tiểu-thư cùng với thúy-hoàn ra chơi.
Mở hòm nhác thấy một bài,
Ngạc-nhiên cất lấy thưa lời đến ông.
Trần-công rằng: "Sự lạ lùng,
Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi !"
Đòi thúy-hoàn, mới dạy lời,
Dặn-dò hãy thử ướm chơi thăm tình.
Hoàn rằng: "Hơi hỡi Mai-sinh,
830Toan gieo cái vạ tày đình cho ai ?
Bây giờ Lư-tướng nghe hơi,
Sai về trách-cứ một hai lấy người.
Kẻo còn quanh-quẩn những lời,
"Còn nay Vương-thị, còn mai Hỉ Đồng ?"
Mai-sinh nghe tỏ sự lòng,
Uốn lời thú thực phô sòng van-lơn :
"Mai nay muôn đội ơn hoàn,
Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng."
Túy-hoàn mới ngỏ thực lòng :
840"Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi.
Mới rồi nhân thấy vị-bài,
Rõ tình ông dạy cho lời không sao !"
Mai-sinh ren-rén bước vào,
Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình.
Ông rằng: "Sau những dấu quanh,
Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư ?
Thế mà bác cứ thờ-ơ,
Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày."
Lạy rồi, sinh mới giãi-bày :
850Từ ngày về quán từ ngày nghe oan.
Bao nhiêu tình-tự nguồn cơn,
Sơn-đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
Ơn Đồ Thân, nghĩa Hỉ Đồng,
Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.
Bước đường xa, cái sống thừa,
Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay !
Ông rằng: "Nương-náu ở đây,
Thù kia ắt cũng có ngày trả xong.
Niệm cũng công-tử một phòng,
860Anh em liệu đấy dốc lòng nghiệp nho.
Tình thế-nghị nghĩa giao-du,
Văn-chương tri-kỷ, chuyện trò chiếu-tâm."
Mặc ai gặp bạn tri-âm,
Ông bà luống những bàn thầm rỉ tai :
"Mai-sinh là bậc thiên-tài,
Câu văn cẩm tú, vẻ người y-quan.
Lòng ta muốn gả Hạnh Nguyên,
Thiên tài, quốc-sắc hai bên cũng vừa,
Chẳng lâu, thấy đó bây giờ,
870Bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày."
Bà rằng: "Được thế là may,
"Thế thì tuổi-tác lòng này cũng an !"
Thày-lai có một thúy-hoàn,
Ra vào nghe thấy chuyện bàn đinh-ninh.
Lòng riêng, riêng cũng thuận tình,
Khi ra đon-đả với sinh thì-thầm.
Người khuê-các khách thư-cầm,
Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai.