Bước tới nội dung

Sấm giảng khuyên người đời tu niệm

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Sẩm giảng Khuyên Người đời tu niệm  (1939) 
của Huỳnh Phú Sổ

Đây là quyển thứ nhứt mà Huỳnh Phú Sổ đã viết trong khoảng năm Kỷ Mão (1939) tại Hòa Hảo, dài 912 câu

Hạ nguơn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.
Năm Mèo Kỷ Mão rõ ràng,
Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi.
Ngồi buồn Điên tỏ một khi,
Bá gia khổ não vậy thì từ đây.
Cơ trời thế cuộc đổi xây,
Điên mới theo Thầy xuống chốn phàm gian.
Thấy đời ly loạn bất an,
Khắp trong các nước nhộn nhàng đao binh.
Kẻ thời phụ nghĩa bố kình,
Người thời trung hiếu chẳng gìn vẹn hai.
Nên Điên khuyên nhủ bằng nay,
Xin trong lê thứ ngày rày tỉnh tâm.
Cơ thâm thì họa diệt thâm,
Nào trong sách sử có lầm ở đâu.
Người khôn nghe nói càng rầu,
Người ngu nghe nói ngửa đầu cười reo.
Rồi sau sẽ thấy hùm beo,
Khắp trong bá tánh hiểm nghèo đáng thương.
Điên nầy vưng lịnh Minh Vương,
Với lịnh Phật đường đi xuống giảng dân.
Thấy trong bá tánh phàm trần,
Kẻ khinh người nhạo Thần Tiên quỉ tà.
Mặc ai bàn tán gần xa,
Quỉ của Phật Bà sai xuống cứu dân.
Kẻ xa thì mến đức-ân,
Làm cho người gần ganh-ghét khinh-khi.
Nam mô, mô Phật từ bi,
Miệng thì niệm Phật lòng thì tà gian.
Khắp trong bá tánh trần hoàn,
Cùng hết xóm làng đều bỉ người Điên.
Điên nầy xưa cũng như ai,
Vào các ra đài tột bực giàu-sang.
Nghĩ suy danh lợi chẳng màng,
Bèn lên ẩn dật lâm san tu trì.
Nhờ Trời may mắn một khi,
Thẩn thơ lại gặp Đức Thầy Bửu-Sơn.
Cúi đầu Điên tỏ nguồn cơn,
Động lòng bác ái ra ơn dạy truyền.
Thấy Điên tâm tánh quá thiềng,
Nội trong sáu khắc biết liền Thiên cơ.
Chuyện nầy thôi nói sơ sơ,
Để rộng thì giờ nói chuyện chơn tu.
Dương trần kẻ trí người ngu,
Ham võng ham dù danh lợi xuê xang.
Cờ đà đến nước bất an,
Chẳng lo tu niệm tham gian làm gì.
Phật, Trời thương kẻ nhu mì,
Trọng cha, yêu Chúa kính vì tổ tông.
Ngồi buồn nói chuyện bông lông,
Khắp trong trần hạ máu hồng nhuộm rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh thơi,
Dậu Phật ra đời thế giới bình yên.
Điên nầy Điên của Thần Tiên,
Ở trên Non Núi xuống miền Lục Châu.
Đời còn chẳng có bao lâu,
Rán lo tu niệm đặng chầu Phật Tiên.
Thế gian ít kẻ làm hiền,
Nhiều người tàn bạo làm phiền Hóa Công.
Thế gian chuyện có nói không,
Đến hội Mây Rồng thân chẳng toàn thây.
Việc đời đến lúc cấn gay,
Mà cũng tối ngày nói xéo nói xiên.
Dương trần tội ác liên miên,
Sau xuống huỳnh tuyền Địa ngục khó ra.
Điên nầy nói việc gần xa,
Đặng cho lê thứ biết mà lo tu.
Tu cho qua cửa Diêm phù,
Khỏi sa Địa ngục ngao du Thiên đài.
Đường đời chẳng có bao dai,
Nên viết một bài cho bá tánh coi.
Tuồng đời như pháo châm ngòi,
Bá gia yên lặng mà coi Khùng nầy.
Khùng thời ba tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy đầy rõ việc Thiên cơ.
Điên đây còn dại còn khờ,
Yên lặng như tờ coi chúng làm sao.
Bá gia kẻ thấp người cao,
Chừng thấy máu đào chúng mới chịu tu.
Bây giờ giả dạy giả ngu,
Cũng như Nhơn Quí ở tù ngày xưa.
Lúc nầy kẻ ghét người ưa,
Bị Điên nói bừa những việc vừa qua.
Dương trần biếm nhẻ gần xa,
Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm.
Ngồi buồn nhớ chuyện xa xăm,
Dạo trong Bảy Núi cười thầm sư mang.
Nói rằng lòng chẳng tham sang,
Sao còn ham của thế-gian làm gì?.
Việc nầy thôi quá lạ kỳ,
Cũng trong Phật giáo sao thì chê khen.
Lúc nầy tâm trí rối beng,
Tiếng huyễn tiếng kèn mặc ý bá gia.
Hết gần rồi lại tới xa,
Dân sự nhà nhà bàn tán cười chơi.
Chuyện nầy cũng lắm tuyệt vời,
Giả như Hàn Tín đợi thời lòn trôn.
Đến sau danh nổi như cồn,
Làm cho Hạng Võ mất hồn mấy khi.
Chuyện xưa thanh-sử còn ghi,
Khen anh Hàn Tín vậy thì mưu cao.
Chuyện đời phải có trước sau,
Điên Khùng khờ dại mà cao tu hành.
Bá gia phải rán làm lành,
Niệm Phật cho rành đặng thấy Thần Tiên.
Thương đời trong dạ chẳng yên,
Khắp trong lê thứ thảm phiền từ đây.
Ngày nay thế cuộc đổi xây,
Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu cho.
Mảng theo danh lợi ốm o,
Sẵn của hét hò đứa ở người ăn.
Đừng khi nhà lá một căn,
Mà biết niệm Phật sau bằng bạc muôn.
Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.
Cửu Huyền Thất Tổ chẳng thờ,
Để thờ những Đạo ngọn cờ trắng phau.
Dương trần bụng dạ nhiều màu,
Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng nghĩ suy.
Lời xưa người cổ còn ghi,
Những việc lạ kỳ nay có hay chưa?
Chưa là với kẻ chẳng ưa,
Chớ người tâm đạo biết thừa tới đâu.
Bá gia mau kíp lo âu,
Để sau đối đầu chẳng đặng toàn thây.
Việc đời nói riết thêm nhây,
Nếu muốn làm Thầy phải khổ phải lao.
Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn màu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
Nói ra nước mắt rưng rưng,
Điên biểu dân đừng làm dữ làm hung.
Việc đời nói chẳng có cùng,
Đến sau mới biết đây dùng kế hay.
Bây giờ mắc việc tà tây,
Nên mới làm vầy cho khỏi ngại nghi.
Thiên cơ số mạng biết tri,
Mà sao chẳng chịu chạy đi cho rồi?
Những người giả đạo bồi hồi,
Còn chi linh thính mà ngồi mà nghe.
Việc đời như nước trong khe,
Nó tưởng đặt vè nói biếm người hung.
Điên nầy nối chí theo Khùng,
Như thể dây dùn đặng cứu bá gia.
Sau nầy kẻ khóc người la,
Vài ba năm nữa biết mà tà tinh.
Điên biết chẳng lẻ làm thinh,
Nói cho bá tánh mặc tình nghe không.
Việc Điên, Điên xử chưa xong,
Lục Châu chưa giáp mà lòng ủ ê.
Người nghe đạo lý thì mê,
Kẻ lại nhún trề nói: Lão kiếm cơm.
Thấy nghèo coi thể rác rơm,
Rồi sau mới biết rác rơm của Trời.
Vì Điên chưa đến cái thời,
Nên còn ẩn dạng cho người cười chê.
Từ đây sắp đến thảm thê,
Con lìa cha mẹ, vợ kia xa chồng.
Tới chừng đến việc ngóng trông,
Trách rằng Trời Phật không lòng từ bi.
Di Đà lục tự rán ghi,
Niệm cho tà quỉ vậy thì dang ra.
Khuyên đừng xài phí xa hoa,
Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu.
Đừng khinh những kẻ đui mù,
Đến sau sẽ khổ gấp mười mù đui.
Đời nay xét tới xem lui,
Chừng gặp tuổi Mùi bá tánh biết thân.
Tu hành sau được đức ân,
Nhờ Trời ban bố cho gần Phật Tiên.
Nói ra trong dạ chẳng yên,
Điên gay chèo quế dạo miền Lục Châu.
Tới đâu thì cũng như đâu,
Thêm thảm thêm sầu lòng dạ người xưa.
Bá gia ai biết thì ưa,
Tôi chẳng nói thừa những việc Thiên-cơ.
Khi già lúc lại trẻ thơ,
Giả quê giả dốt khắp trong thị thiềng.
Đi nhiều càng thảm càng phiền,
Lên doi xuống vịnh nào yên thân Già.
Tay chèo miệng lại hát ca,
Ca cho bá tánh biết đời loạn ly.
A Di Đà Phật từ bi,
Ở bên Thiên Trước chứng tri lòng nầy.
Từ ngày thọ giáo với Thầy,
Dẹp lòng vị kỷ đầy lòng yêu dân.
Ngày nay chẳng kể tấm thân ,
Miễn cho bá tánh được gần Bồng Lai.
Đời nầy vốn một lời hai,
Khắp trong trần hạ mấy ai tu trì.
Đời nầy giành giựt làm chi,
Tới việc ly kỳ cũng thả trôi sông.
Thuyền đưa Tiên Cảnh Non Bồng,
Mấy ai mà có thiềng lòng theo đây.
Cứ lo làm việc tà tây,
Bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn.
Chừng đau niệm Phật lăng xăng,
Phật đâu chứng kịp lòng người ác gian.
Thấy đời mê muội lầm than,
Ăn bạ nói càn tội lỗi chỉn ghê.
Chữ tu không phải lời thề,
Mà không nhớ đến đặng kề Tiên bang.
Nói nhiều trong dạ xốn xang,
Cùng hết xóm làng tàn ác nhiều hơn.
Thầy chùa như thể cây sơn,
Ngoài da coi chắc trong thời mối ăn.
Buồn thay cho lũ ác tăng,
Làm điều dối thế cho hư Đạo mầu.
Di Đà Phật Tổ thêm rầu,
Giận trong tăng chúng sao lừa dối dân.
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Tu theo lối cũ mau gần Diêm Vương.
Bá gia lầm lạc đáng thương,
Nên trước Phật đường thọ lãnh dạy dân.
Dương trần nhiều kẻ ham sân,
Cứ theo biếm nhẻ xa gần người Điên.
Lòng buồn mượn lấy bút nghiên,
Viết cho trần hạ bớt phiền lo tu.
Thương đời chớ chẳng kiếm xu,
Buồn cho bá tánh hết mù tới đui.
Có chi mà gọi rằng vui,
Khắp trong bá tánh gặp hồi gian lao.
Từ đây hay ốm hay đau,
Rán tu đem được Phật vào trong tâm.
Lời hiền nói rõ họa thâm,
Đặng cho bá tánh tỉnh tâm tu hành.
Ngày nay Điên mở Đạo lành,
Khắp trong lê thứ được rành đường tu.
Nay đà gần cuối mùa thu,
Hết ngu tới dại công phu gần thành.
Xác trần đạo lý chưa rành,
Mấy ai mà được lòng thành với Điên.
Điên nầy sẽ mở xích xiềng,
Dắt dìu bá tánh gần miền Tiên bang.
Không ham danh lợi giàu sang,
Mong cho bá tánh được nhàn tấm thân.
Thường về chầu Phật tấu trần,
Cầu xin Phật Tổ ban lần đức ơn.
Nay đà bày tỏ nguồn cơn,
Cho trong trần hạ thiệt hơn tỏ tường.
Phật, Trời thấy khổ thời thương,
Muốn cho lê thứ thường thường làm nhơn.
Đừng ham tranh đấu thiệt hơn,
Tu niệm chớ sờn uổng lắm dân ôi!
Hồng trần biển khổ thấy rồi,
Rán tu nhơn đạo cho tròn mới hay.
Đừng ham nói đắng nói cay,
Cay đắng sau nầy đau đớn, sầu bi.
Tu hành tâm trí rán trì,
Sau nầy sẽ thấy việc gì trên mây.
Đừng làm tàn ác ham gây,
Sẽ có người nầy cứu vớt giùm cho.
Dương trần lắm chuyện đôi co,
Phải dẹp vị kỷ mà lo tu hành.
Kệ kinh tưởng niệm cho sành,
Ngày sau thấy Phật đành rành chẳng sai.
Lúc nầy thế giới bi ai,
Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.
Mấy lời khuyên nhủ chẳng lầm,
Từ đây đạo hạnh được mầm thanh cao.
Hồng trần lao khổ xiết bao,
Khuyên trong lê thứ bước vào đường tu.
Xưa nay đạo hạnh quá lu,
Ngày nay sáng tỏ đền bù ngày xưa.
Mặc tình kẻ ghét người ưa,
Điên chẳng nói thừa lại với thứ dân.
Quan trường miệng nói vang rân,
Mà tâm dính chặt hồng trần bụi nhơ.
Buồn đời nên mới làm thơ,
Cũng còn tai lấp mắt ngơ mới kỳ.
Người đời lòng dạ bất tri,
Trông cho làm bịnh dị kỳ nó coi.
Dương gian chậu úp được voi,
Dấu đầu rồi lại cũng lòi sau đuôi.
Nói nhiều mà dạ chẳng nguôi,
Việc tu bá tánh bắn lùi như tôm.
Tưởng Phật được lúc đầu hôm,
Đêm khuya muốn giựt nồi cơm của người.
Thế gian nhiều chuyện nực cười,
Tu hành chẳng chịu, lo cười lo khinh.
Người già ham muốn gái xinh,
Đến sao chẳng biết thân mình ra sao?
Xác thân cọp xé beo quào,
Còn người tàn bạo máu đào tuôn rơi.
Tu hành hiền đức thảnh thơi,
Ngay cha thảo Chúa, Phật Trời cứu cho.
Bá gia hãy rán mà lo,
Kiếm Lão Đưa Đò nói chuyện huyền cơ.
Bấy lâu chẳng biết làm thơ,
Nay viết ít tờ trần hạ tỉnh tâm.
Đến sau khổ hạnh khỏi lâm,
Nhờ công tu niệm âm thầm quá hay.
Chừng nào chim nọ biếng bay,
Cá kia biếng lội khổ nầy mới yên.
Nhắc ra quá thảm quá phiền,
Bể khổ gần miền mà chẳng chịu tu.
Ngọn đèn chơn lý hết lu,
Khắp trong lê thứ ao tù từ đây.
Thấy trong thời cuộc đổi xây,
Đời nay trở lại khác nào đời Thương.
Nhắc ra thêm ghét Trụ Vương,
Ham mê Đắc Kỷ là phường bội cha.
Hết gần Điên lại nói xa,
Nói cho bá tánh biết mà người chi.
Lời lành khuyên hãy gắn ghi,
Dương trần phải rán tu trì sớm khuya.
Đừng ham làm chức nắc nia,
Ngày sau như khóa không chìa dân ôi.
Tu hành như thể thả trôi,
Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm.
Mưu sâu thì họa cũng thâm,
Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề,
Lại thêm ác thú mãng xà, rít to.
Bá gia ai biết thì lo,
Gác tai gièm siểm đôi co ích gì,
Hết đây rồi đến dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.
Dân nay như thể không cha,
Chẳng ai dạy dỗ thật là thảm thương.
Thứ nầy đến thứ Minh Vương,
Nơi chốn Phật đường mặt ngọc ủ ê.
Cám thương trần hạ nhiều bề,
Bởi chưng tàn bạo khó kề Phật Tiên.
Chúng ham danh lợi điền viên,
Ngày sau đến việc lụy phiền suốt canh.
Kệ kinh tụng niệm đêm thanh,
Ấy là châu ngọc để dành ngày sau.
Bây giờ chưa biết vàng thau,
Đời sau kính trọng người cao tu hành.
Nam mô miệng niệm lòng lành,
Bá gia phải rán biết rành đường tu.
Thương ai ham võng ham dù,
Cũng như những kẻ đui mù đi đêm.
Khuyên đời như vá múc thêm,
Mảng lo tranh đoạt thù hềm với nhau.
Đến chừng có ốm có đau,
Vang mồm niệm Phật, Phật nào chứng cho.
Dương trần tiếng nhỏ tiếng to,
Nói ngỗng nói cò đây cũng làm thinh.
Tưởng rằng thân nó là vinh,
Chẳng lo tu niệm cứ ghình với Điên.
Nói ra trong dạ chẳng yên,
Bây giờ nói chuyện cỡi thuyền khuyên dân.
Đêm ngày chẳng nại tấm thân,
Nắng mưa chẳng quản tảo tần ai hay.
Chừng sau đến hội Rồng Mây,
Người đời mới biết Điên nầy là ai.
Lui thuyền chèo quế tay gay,
Thuyền đi nước ngược đến rày cù-lao.
Xa xa chẳng biết làng nào,
Thiệt làng Long Khánh ít người nào tu.
Tớ Thầy liền giả đui mù,
Bèn đi ca hát kiếm xu dương trần.
Bá gia tựu lại rần rần,
Trong nữa ngày trần chẳng có đồng chi.
Nực cười trần hạ một khi,
Ở một đêm thì sáng lại qua sông.
Bình minh vừa buổi chợ đông,
Bày trò bán thuốc hát ròng đời nay.
Cho thiên hạ tựu đông vầy,
Rồi mới ra bài hát việc Thiên cơ.
Tới đây bá tánh làm ngơ,
Buồn cho lê thứ kịp giờ ra đi.
Lìa xa Hồng Ngự một khi,
Thẳng đường trực chỉ Điên đi Tân Thành.
Tới đây ra mặt người rành,
Nói chuyện thiệt sành thông lảu Đạo nho.
Nhiều người xúm lại đôi co,
Chê lão đưa đò mà biết việc chi.
Thấy đời động tánh từ bi,
Điên chẳng bắt tì còn mách việc xa.
Khoan khoan chơn nọ bước ra,
Giáp rạch Cả Cái rồi ra ngoài vàm.
Đoái nhìn mây nọ trắng lam,
Điên ra sức lực chèo chơi một giờ.
Xa nhìn sương bạc mờ mờ,
Tân An làng nọ dân nhờ bắp khoai.
Giả người bán cá bằng nay,
Dân chúng ngày rày xúm lại mua đông .
Tới lui giá cả vừa xong,
Điên cũng bằng lòng cân đủ cho dân.
Có người chẳng chịu ngang cân,
Bỏ thêm chẳng bớt mấy lần không thôi.
Nực cười trần hạ lắm ôi!
Giảng cho bá tánh một hồi quá lâu.
Thân già thức suốt canh thâu,
Nói cho lê thứ quày đầu mới thôi.
Nhiều người nghe hết phủi rồi,
Quày thuyền trở lại bồi hồi sầu bi.
Giả người tàn tật một khi,
Xuống vàm kinh Xáng được thì chút vui.
Một người nhà lá hẩm-hui,
Mà biết đạo lý mời Cùi lên chơi.
Bàn qua kim cổ một hồi,
Cùi xuống giữa vời Châu Đốc thẳng xông.
Đến nơi thiên hạ còn đông,
Giả gái không chồng đi bán cau tươi.
Thấy dân ở chợ nực cười.
Xúm nhau trêu ghẹo đặng cười Gái Tơ.
Buồn đời lăng mạ ngẩn ngơ,
Biến mất lên bờ liền giả cùi đui.
Phố phường nhiều kẻ tới lui,
Thấy kẻ Đui Cùi chẳng muốn ngó ngang.
Đời nay quý trọng người sang,
Giả ra gây lộn nói toàn tiếng Tây.
Tây, Nam, Chà, Chệt, chú, thầy,
Nó thấy làm vầy chẳng bắt ngại nghi.
Xuống thuyền quày quả một khi,
Chèo lên Vĩnh Tế vô thì núi Sam.
Đi ngang chẳng ghé chùa am,
Xuôi dòng núi Sập đặng làm người ngu.
Xem qua đầu tóc u sù,
Cũng như người tội ở tù mới ra.
Chèo ghe rao việc gần xa,
Bồng Lai Tiên Cảnh ai mà đi không?
Nhiều người tâm đạo ước mong,
Nếu tôi gặp được như rồng lên mây.
Ấy là tại lịnh Phương Tây,
Cho kẻ bạo tàn kiến thấy Thần Tiên.
Có người nói xéo nói xiên,
Chú muốn kiếm tiền nói gạt bá gia.
Thoáng nghe lời nói thiết tha,
Rưng rưng nước mắt chèo về Mặc Dưng.
Tay chèo miệng cũng rao chừng.
Đường đi Tiên cảnh ai từng biết chưa?
Khúc thời nhắc lại đời xưa,
Lúc chàng Lý Phủ đổ thừa Trọng Ngư.
Nhà anh có của tiền dư,
Sao chẳng hiền từ thương xót bá gia?
Bây giờ gặp việc thiết tha,
Bạc vàng có cứu anh mà hay không?
Hết tây Điên lại nói đông,
Có ai thức tỉnh để lòng làm chi!
Mặc Dưng mất dạng Từ Bi,
Thuyền đi trở ngược về thì Vàm-Nao.
Dòm xem thiên hạ lao xao,
Không ghé nhà nào cũng gọi vài câu.
Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.
Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt-thú nuốt mà người hung.
Đến chừng thú ấy phục tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai.
Bây giờ phải chịu tiếng tai,
Giảng Đạo tối ngày mà chẳng ai nghe.
Đời như màn nọ bằng the,
Hãy rán đọc vè của kẻ Khùng Điên.
Khỏi vàm Điên mới quày thuyền,
Xuống miền Cao Lãnh lại phiền lòng thêm.
Tới đây ca hát ban đêm,
Ai có thù hềm chưởi mắng cũng cam.
Cho tiền cho bạc chẳng ham,
Quyết lòng dạy dỗ dương trần mà thôi.
Nghe rồi thì cũng phủi rồi,
Nào ai có biết đây là người chi.
Trở về Phong Mỹ một khi,
Thuyền đi một mạch tới thì Rạch Chanh.
Ghe chèo khúc quẹo khúc quanh,
Ở đây có một người lành mà thôi.
Nhắc ra tâm trí bồi hồi,
Khó đứng khôn ngồi thương xót bá gia.
Kiến Vàng làng nọ chẳng xa,
Kíp mau tới đó vậy mà thử coi.
Xứ nầy nhà cửa ít oi,
Mà trong dân sự nhiều người chơn tu.
Thấy người đói rách xin xu,
Ra tay cứu vớt đui mù chẳng chê.
Khỏi đây đến chổ bộn bề,
Rõ ràng Bến Lức đã kề bên ghe.
Giả người tàn tật đón xe,
Rồi lại nói vè ròng việc Thiên-cơ.
Hết vè rồi lại nói thơ,
Làm cho bá tánh ngẩn ngơ trong lòng.
Thơ vè Điên đã nói xong,
Đi luôn Ba Cụm kẻo lòng ước-mơ.
Tới đây dẹp hết vè thơ,
Giả Người Bán Mắm quá khờ quá quê.
Chợ nầy thiên hạ bộn bề,
Kẻ nhún người trề chê mắm chẳng ngon.
Bạn hàng tiếng nói quá dòn:
Giá nầy chẳng bán còn chờ chuyện chi?
Bưng thời kẻ níu người trì:
Ở đây không bán chị thì đi đâu?
Dứt lời rồi lại câu mâu,
Mắng: con đĩ chó khéo hầu làm khôn?
Muốn làm cho có người đồn,
Biến mất xác hồn cho chúng chỉn ghê.
Nói ra thêm thảm thêm thê,
Ông Lãnh dựa kề giả bán trầu cau.
Bạn hàng xúm lại lao xao:
Ông bán giá nào nói thử nghe coi?
Trầu thời kẻ móc người moi,
Còn cau bẻ giấu thấy lòi tánh tham.
Thấy già bán rẻ nó ham,
Bị thêm quê dốt nó làm thẳng tay.
Ghe người biến mất bằng nay,
Cho chúng biết tài của kẻ Thần Tiên.
Bến Thành đến đó đậu liền,
Gặp hai thằng lính tra liền thuế thân.
Tớ Thầy nói chuyện cân phân:
Mới lỡ một lần xin cậu thứ tha.
Hai người tôi ở phương xa,
Bởi chưng khổ não mới là nổi trôi.
Lính nghe vừa dứt tiếng rồi,
Khoát nạt một hồi rồi lại bắt giam.
Thấy đời trong dạ hết ham,
Ghe người biến mất coi làm chi đây.
Tức thời Điên giả làm thầy,
Đi coi đi bói khắp trong phố phường.
Có người tu niệm đáng thương,
Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh.
Dạo cùng khắp cả Sài Thành,
Khi ca khi lý nói rành Thiên cơ.
Bá gia bá tánh làm ngơ,
Tưởng như những kẻ nói thơ kiếm tiền.
Văn minh trọng bạc trọng tiền,
Khôn ngoan độc ác làm phiền người xưa.
Mặc ai ghét ghét ưa ưa,
Chẳng dám nói bừa cho bá tánh nghe.
Phiền ba ngựa ngựa xe xe,
Điên giả người què Gia Định thẳng xông.
Què nầy đường xá lảu thông,
Khắp trong thiềng thị rồi thì nhà quê.
Kêu cơm bá tánh nghe ghê,
Thêm nói bộn bề những việc về sau.
Dương trần bàn tán thấp cao,
Chẳng biết người nào rõ việc tiên tri.
Giả từ Gia Định một khi,
Thuyền loan trực chỉ đến thì Cần thơ.
Tới đây giả kẻ quá khờ,
Vợ điên chồng lại đứng hờ một bên.
Phố phường xóm dưới đầu trên,
Cùng người đi chợ xúm nhau reo cười.
Thị thiềng hiền đức được mười,
Phần nhiều xúm lại chê cười Người Điên.
Vợ thời ca hát huyên thiên,
Chồng chẳng có tiền lại quán xin cơm.
Bá gia coi thể rác rơm,
Ai cũng sẳn hờm đặng có ghẹo chơi.
Điên mà ca hát việc đời,
Với việc hiện thời khổ não Âu Châu.
Chạy cùng chẳng sót đâu đâu,
Lòng quá thảm sầu lìa lại Vĩnh Long.
Chợ quê giảng dạy đã xong,
Thuyền loan trực chỉ đến rày Bến Tre.
Chợ nầy đậu tại nhà bè,
Giả chị bán chè dạo khắp các nơi.
Giọng rao rặt tiếng kim thời,
Rước rước mời mời anh chị mua ăn.
Trẻ già qua lại lăng xăng,
Nói nói rằng rằng những việc bướm ong.
Gánh chè bán hết vừa xong,
Điên cũng nói ròng chuyện khổ về sau.
Nói rồi chơn bước mau mau,
Lìa xa thiềng thị đến thì thôn quê.
Đi đâu cũng bị nhún trề,
Kẻ lại chưởi thề nói: lũ bá-vơ.
Thấy đời tai lấp mắt ngơ,
Lúc ở trên bờ khi lại đi ghe.
Dạo cùng khắp tỉnh Bến Tre,
Đủ bực thơ vè lìa lại Trà Vinh.
Tới đây bày đặt hát kình,
Đua nhau bán thuốc mặc tình mua không.
Nói ra những chuyện bông lông,
Trách trong lê thứ không lòng từ bi.
Gặp người đói khó khinh khi,
Điền viên sự sản ai thì làm cho.
Dạy rồi thuyền lại Mỹ Tho,
Khuyên trong trần hạ rán lo tu trì.
Xưa nay không có mấy khi,
Dương trần có Phật vậy thì xuống đây.
Chợ quê giáp hết thuyền quay,
Đi trở lộn về Ông Chưởng giảng dân.
Quản chi nắng Sở mưa Tần,
Chèo xuôi chèo ngược mấy lần không thôi.
Thảm thương bá-tánh lắm ôi!
Bồng Lai Tiên cảnh rao rồi một khi.
Nếu ai rảnh việc thì đi,
Còn mắc nợ thì ở lại dương gian.
Có người xưng hiệu ông quan,
Tên thiệt Vân Trường ở dưới dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu niệm vậy mà,
Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non bồng.
Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,
Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.
Ngồi chơi đạo lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau.
Hỏi qua tu niệm âm hao,
Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.
Buồn đời Điên mới bước ra,
Tay gay chèo quế dạo mà khắp nơi.
Đi hoài chẳng có nghỉ ngơi,
Miệng cũng rao mời Tiên cảnh Bồng Lai.
Có người xuống bến bằng nay,
Mách chơi ít tiếng người rày mạng vong.
Nhà ngươi thiệt chẳng có lòng:
Đòi đã hai lần sao chẳng chịu đi?
Thương đời ta luống sầu bi,
Đò đi tới chốn ăn thì bao nhiêu?
Điên rằng tôi chẳng ham nhiều,
Bao nhiêu tự ý cho nhiều chẳng ham.
Điên nầy bụng chẳng có tham,
Ghe đã chở đầy chật nứt trong mui.
Già đây cũng chở cầu vui,
Vậy chú hãy ngồi ngay chỗ sau đây.
Thấy người lòng dạ tà-tây,
Thân tôi làm vầy ông chẳng cho vô.
Trong mui đã mát lại khô,
Tôi có đủ tiền mà trả cho ông.
Trong mui dòm thấy trống không,
Bước nhầu vào đó máu hồng trào ra.
Cho người hung bạo biết Ta,
Thuyền người biến mất vậy mà còn chi.
Trở lên Chợ Mới một khi,
Chèo lên chèo xuống vậy thì cũng rao.
Năm xưa đây có máu đào,
Mà nay chưa có người nào chơn tu.
Nào Điên có muốn kiếm xu,
Mà trong trần hạ đui mù không hay.
Hỏi ông người ở đâu rày,
Trả lời rằng ở Non cày Vua Nghiêu.
Tới đây trong dạ buồn hiu,
Bỏ ghe Điên cũng đánh liều chưa thôi.
Giả ra một kẻ hàn nồi,
Khắp trong hàng xóm đi rồi sạch trơn.
Tới đâu cũng tỏ thiệt hơn,
Nhà tôi vốn thiệt có đờn năm dây.
Tôi còn mắc cái nợ nầy,
Nên mới làm vầy cho giải quả căn.
Nhà tôi đâu phải khó khăn,
Đem theo trong xách bạc hằng tám mươi.
Nhiều người nghe nói reo cười,
Thân tôi lao lý anh cười tôi chi?
Giả từ Chợ Mới một khi,
Thuyền đi xuôi ngược đến thì Ba Răng.
Ít ai biết được Đạo hằng,
Ghé am thầy pháp nói rằng lỡ chơn.
Trước sau bày tỏ nguồn cơn,
Vì thương lê thứ chi sờn lòng đây.
Có người lối xóm muốn gây,
Xin sáu trái bắp liền quày xuống ghe.
Ghe Điên vốn thiệt ghe be,
Mà lại Điên nhè nước ngược thẳng xông.
Ra oai thuyền chạy như dông,
Người nhà xuống bến trong lòng ngại nghi.
Ông nầy chẳng biết người chi,
Chèo quế vậy thì mạnh bạo quá tay.
Thần Tiên mà chẳng ai hay,
Cứ biếm nhẻ hoài buồn dạ người xưa.
Đời nay mỏng tợ màn thưa,
Khuyên trong lê thứ chẳng thừa một câu.
Thân nầy chẳng nệ mau lâu,
Miễn cho bá tánh gặp chầu vinh huê.
Thương trong trần hạ thảm thê,
Lao khổ nhiều bề chớ chẳng còn vui.
Nhiều người nghèo khổ hẩm hui,
Không đất cặm dùi mà chẳng ai thương.
Con thuyền đương lướt gió sương,
Bỗng nghe tiếng khóc tư lương ai hoài.
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn.
Du thần bày tỏ nguồn cơn:
Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên.
Điên nghe vội vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,
Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi.
Rồi đi dạo xóm một khi,
Đi lên nhà thì giã gạo mà chơi.
Vào nhà nói chuyện một hơi,
Gặp người bán thuốc cũng thời ghé vô.
-Mua một ve uống hởi cô,
Uống vô bổ khỏe trị nhiều chứng phong.
Uống thì pha nước nóng trong,
Chớ đừng pha rượu nó hòng kỵ thai.
Hai thằng ở xóm bằng nay,
Nó nói ngày rày thuốc chẳng có hay.
Người cha đi lại thấy rầy,
Thiệt mấy đứa nầy cải cọ làm chi.
Bước ra nhà nọ một khi,
Đi lên đi xuống kiếm thì xe lôi.
Gặp xe chẳng có lên ngồi,
Chạy trước đi rồi ngừng lại chỗ kia.
Xóm nầy kẻ ghét người ưa,
Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.
Nhổ rồi lui tới lăng xăng,
Liền bước xuống thuyền Thầy Tớ thả trôi.
Vàm Nao rày đã đến rồi,
Quày thuyền ghé lại bằng nay Chợ Đình.
Hát hai câu hát huê tình,
Đậu xem dân-chúng Chợ-Đình làm sao.
Sáng ngày chợ nhóm lao xao,
Giả bận áo màu ai cũng dòm xem.
Mấy thằng trai trẻ thấy thèm,
Đứng xa quanh quẩn nói gièm với nhau.
Đứa nầy nói để cho tao,
Đứa kia xạo xự áo màu quá ngon.
Nhắc ra động tấm lòng son,
Buồn cho lê thứ sao còn ham vui.
Ở đây một buổi ghe lui,
Về trên bảy núi ngùi ngùi thương dân.
Thầy Trò chẳng nại tấm thân,
Rảo khắp Non Tần bận nữa thử coi.
Chơn tu thì quá ít oi,
Nhiều người ẩn sĩ quá lòi tánh tham.
Đi lần ra đến Núi Sam,
Đến nơi rảo khắp chùa am của người.
Dạy rồi bắt quá tức cười,
Thầy tu nhiều kẻ biếng lười quá tay.
Trẻ già biến hóa ai hay,
Dạo trong Bảy Núi chẳng nài công lao.
Rú rừng lúc thấp lúc cao,
Giả ra nghèo khó vào nhiều am vân.
Tu hành nhiều kẻ tham sân,
Làm sao cho đặng mau gần Phật-Tiên.
Ai ai cũng cứ ham tiền,
Ấy là đem sợi xích xiềng trói thân.
Lìa xa Bảy Núi lần lần,
Xuống thuyền trực chỉ lên gần Hà Tiên.
Đến đây giả kẻ không tiền,
Rảo khắp thị thiềng xin xỏ bá gia.
Đi rồi cũng quá thiết tha,
Trở về non cũ đặng mà dạo chơi.
Non Tiên gió mát thảnh thơi,
Nhưng nhớ việc đời lụy ngọc nhỏ sa.
Xuống trần lúc hát lúc ca,
Mà trong lê thứ có mà biết chi.
Nam mô hai chữ từ bi,
Trần hạ nói gì đây cũng làm thinh.
Tu thời nhàn hạ thân mình,
Phần Điên khuyên nhủ mặc tình ghét ưa.
Thiên cơ ai dám nói thừa,
Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng.
Xuống thuyền chèo quế thung dung,
Đi dạy đủ chỗ khắp cùng thử coi.
Rạch Giá chợ nọ thoi loi,
Gần nơi ven biển cá mòi nhiều hơn.
Tới đây giả kẻ có cơn,
Khi say khi tỉnh lúc hờn số căn.
Dương trần đi lại lăng xăng,
Chê chê nhạo nhạo cười rằng quân điên.
Ở đâu mà tới thị thiềng,
Lính chẳng bắt xiềng nó lại bót đi.
Lòng thương vì tánh từ bi,
Dạy dỗ chuyện cùng mà chẳng ai nghe.
Dạy rồi Điên lại xuống ghe,
Long Xuyên, Sa Đéc nói ròng vè thơ.
Vợ chồng nghèo khổ bơ vơ,
Ở nơi giữa chợ lại khờ lại quê.
Buồn trong lê thứ ủ ê,
Sóc Trăng chợ ấy thuyền kề đến nơi.
Đến đâu thì cũng tả tơi,
Nói rõ việc đời sắp khổ sắp lao.
Thị thiềng thiên hạ lao xao,
Chẳng có người nào tu niệm hiền lương.
Thấy trong trần hạ thảm thương,
Đâu có biết đường chơn chánh mà đi.
Lìa xa đô thị một khi,
Thuyền loan trực chỉ đến thì Bạc Liêu.
Chợ nầy tàn ác quá nhiều,
Phố phường dân Thổ dân Tiều nhiều hơn.
Đi cùng thành thị ráo trơn,
Cà Mau đến đó thiệt hơn tỏ bày.
Cho trong bá tánh chợ nầy,
Rõ việc dẫy đầy lao lý về sau.
Đường đi lao khổ sá bao,
Miễn cho trần hạ biết vào đường tu.
Tu hành đâu có tốn xu,
Mà sau thoát khỏi lao tù thế gian.
Thầy Trò lắm cảnh gian nan,
Chừng nào hết khổ mới an tấm lòng.
Đằng vân đến tỉnh Gò Công,
Vì thương dân thứ mới hòng đến đây.
Xưa kia bảo lụt tỉnh nầy,
Mà sau cảnh khổ xứ nầy nhiều hơn.
Yêu dân lòng nọ chẳng sờn,
Thầy hát Tớ đờn dạy cũng khắp nơi.
Khỏi đây Bà Rịa tách vời,
Đến đó vậy thời trời mới sáng ra.
Chợ nầy đông đúc người ta,
Nhiều đuông chà là lại với nho tươi.
Đến đây Thầy Tớ hóa mười,
Nói nói cười cười bán thuốc Sơn Đông.
Ai ai đều cũng ngóng trông,
Coi lũ khách này hát thuật làm sao.
Hát mà trong bụng xáo xào,
Nói chuyện bên Tàu máu đổ tuôn rơi.
Cả kêu dân chúng hỡi ôi!
Sao không thức tỉnh việc đời gần bên.
Khổ đà đi đến như tên,
Rán lo tu niệm tìm nền vinh hoa.
Vinh nầy của Đức Phật Bà,
Của Ông Phật Tổ ban mà cho dân.
Tu cho nhàn toại tấm thân,
Đừng làm tàn ác xa lần Tiên bang.
Hát kêu bớ kẻ giàu sang,
Rán lo làm phước làm doan mới là.
Đến lâm cảnh khổ có Ta,
Với lịnh Phật Bà cứu vớt giùm cho.
Tu hành phải rán trì mò,
Gặp Lão Đưa Đò đừng có khinh khi.
Dạy rồi Thầy Tớ liền đi,
Biên Hòa đến đó vậy thì xem qua.
Đến đây dạy dỗ gần xa,
Khuyên trong bá tánh vậy mà tỉnh tâm.
Ngày nay gặp Bạn Tri Âm,
Rán mà trì chí đặng tầm huyền cơ.
Tân An dạy dỗ kịp giờ,
Chẳng dám chần chờ đi thẳng Tây Ninh.
Tới đây vừa lúc bình minh,
Điên ra sức giảng mặc tình nghe không.
Giảng rồi Dầu Một thẳng xông,
Thiềng thị giáp vòng thứ chót là đây.
Thương dân giảng dạy dẫy đầy,
Rảo khắp tối ngày chẳng có nghỉ chơn.
Nhiều người hung ác quá chừng,
Không biết đời khổ lo mừng lo vui.
Nhắc ra dạ nọ nào nguôi,
Từ đây Lục Tỉnh đui cùi thiếu chi.
Nói mà trong dạ sầu bi,
Bá gia chậm chậm khinh khi Điên nầy.
Đừng ham nói nọ nói nầy,
Lặng yên coi thử Điên nầy là ai.
Cảm thương Ông Lão Bán Khoai,
Vì yêu dân chúng chẳng nài nắng mưa.
Câu nầy nhắc chuyện năm xưa,
Khuyên trong trần hạ hãy chừa lòng tham.
Khùng thời quê ngụ Núi Sam,
Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.
Vua Nghiêu xưa mở đất cày,
Ngày nay nhường lại cảnh nầy cho Điên.
Xuống trần dạy dỗ huyên thiên,
Dạy rồi thì lại thảm phiền nhiều hơn.
Cầu xin Phật Tổ ra ơn,
Lời Điên khuyên nhủ như đờn Bá Nha.
Thị thiềng khắp hết gần xa,
Từ đây sắp đến quê nhà Điên đi.
Đừng thấy ngu dại mà khi,
Thầy thì Huệ Lựu tớ thì Huệ Tâm.
Đời cùng còn chẳng mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.
Khuyên trong lê thứ trẻ già,
Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho.
Ấy là quí báu thơm tho,
Đừng ham gây gổ nhỏ to làm gì.
Con thì ăn ở nhu mì,
Học theo luân lý kính vì mẹ cha.
Sau nầy sấu bắt hùm tha,
Xử người tàn bạo vậy mà tại đây.
Đời xưa quả báo thì chầy,
Đời nay quả báo một giây nhãn tiền.
Dương trần phải rán làm hiền,
Đừng trọng bạc tiền bỏ nghĩa bỏ nhân.
Người hung phải sửa cái thân,
Từ đây có kẻ Du Thần xét soi.
Chuyện người chớ móc chớ moi,
Hãy treo gương thiện mà soi lấy mình.
Ai thương ai ghét mặc tình,
Phận mình cứ giữ tâm mình cho ngay.
Điên đây vưng lịnh Phương Tây,
Hầu hạ bên Thầy đặng cứu bá gia.
Thấy đời lòng dạ tây tà,
Cứ theo chế nhạo cười mà người Điên.
Ngồi buồn kể chuyện huyên thiên,
Chẳng có ham tiền cũng bị ghét vơ.
Viết cho bá tánh ít tờ,
Đi làm ruộng rẫy bỏ hờ theo xem.
Thương người nghèo khổ lấm lem,
Thấy cảnh sung sướng nó thèm quá tay.
Ai mà biết đặng ngày mai,
Ngày nay yên tịnh ngày mai thảm sầu.
Từ rày gặp cảnh buồn rầu,
Cho người tàn bạo cứng đầu khinh khi.
Dương trần nay đáng sầu bi,
Nên Điên mới nói chuyện ni tỏ tường.
Đêm ngày tưởng Phật cho thường,
Phải rán lo lường kim chỉ từ đây.
Thương đời Điên mới tỏ bày,
Dạy trong trần hạ ngày rày rán nghe.
Đừng khi nhà lá chòi tre,
Nhà săng cột lớn bù xè hay ăn.
Lúc này Điên mắc lăng xăng,
Dương trần biết đặng đạo hằng mới thôi.
Chẳng ham cúng kiếng chè xôi,
Phật Trời chẳng muốn điều tồi đâu.
Muốn cho dân hiểu Đạo mầu,
Chớ không có muốn chùa lầu cho cao.
Bao nhiêu cũng biết vàng thau,
Dạy khôn trần thế chớ nào dạy ngu.
Sáng ngày con chó sủa tru,
Chừng heo cắn ổ hiềm thù mới yên.
Đừng ham giành giựt của tiền,
Người hung hay gọi kẻ hiền rằng ngu.
Nay Điên chỉ rõ đường tu,
Ấy là đủ việc tài bù cho dân.
Thôi thôi nói riết dần lân,
Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên.


BỬU châu công luyện chốn non Tần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân.
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì thời hạn bảo hộ bản quyền của nó đã hết ở Việt Nam. Nếu là tác phẩm khuyết danh, nó đã được công bố lần đầu tiên trước năm 1960. Đối với các loại tác phẩm khác, tác giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng) của nó đã mất trước năm 1974. (Theo Điều 27, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009 bắt đầu có hiệu lực từ năm 2010 và điều khoản kéo dài bản quyền đối với tác phẩm khuyết danh từ 50 thành 75 năm nhưng không hồi tố)


Ngoài ra, một tác phẩm của Việt Nam thuộc phạm vi công cộng tại Việt Nam theo quy định này cũng thuộc phạm vi công cộng tại Hoa Kỳ chỉ nếu nó thuộc phạm vi công cộng tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 12 năm 1998, tức là: tác phẩm khuyết danh đã được công bố lần đầu tiên trước năm 1948; đối với các loại tác phẩm khác, tác giả (hoặc đồng tác giả cuối cùng) của nó đã mất trước năm 1948 tác phẩm chưa bao giờ được xuất bản tại Hoa Kỳ trước ngày 23 tháng 12 năm 1998. (Theo Tuyên cáo 7161 của Tổng thống Bill Clinton áp dụng Đạo luật Thỏa thuận Vòng đàm phán Uruguay (URAA) đối với các tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam)