Bước tới nội dung

Tài tử đa cùng

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tài tử đa cùng
của Cao Bá Quát

"Tài tử đa cùng" nghĩa là "Người tài tử gặp lắm nỗi cùng ách". Bài phú này ông tự than cảnh cùng cực, cũng là giải bày cái khí tiết cao ngạo của mình.

Có một người khổ dạng trâm-anh[1], nết na chương-phủ[2]. Hôi miệng sữa, tuổi còn giọt máu, nét hào-hoa chừng ná Tân, Dương! chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí-nghiệp những so Y, Phó[3].
Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển-tích[4], nét nhạn điểm lăn-tăn! Vén bút mây dìu-dặt văn-chương, vòng thuyền khuyên lỗ-chỗ.
Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan[5] Khổng[6], trí xông-pha nào quản chông gai! Cựa đuôi Kình[7] toan vượt bể Trình[8] Chu[9], tài bay nhẩy ngại chi lao-khổ.
Lắc bầu rượu, dốc nghiêng non-nước xuống, chén tiếu đàm[10] mời mọc trích tiên[11]; Hóng túi thơ, nong hết gió-giăng vào, cơn xướng họa thì-thầm Lão-Đỗ[12].
Tươi nét mặt thư-sinh lồ-lộ, bưng mặt trần toàn đạp cửa Phù đồ[13]; Rửa buồng gan du-tử[14] nhơn-nhơn, dương tay Tạo[15] rắp xoay cơn khí số.
Tưởng đến khi vinh-hưỡng đã am-tường; song nghĩ lại trần-ai không đếch chỗ.
Lều nho-nhỏ kéo tấm gianh lướp-tướp, ngày thê-lương hạt nặng giọt mưa sa. Đèn con-con gọn chiếc chiếu lôi-thôi; đêm tịch-mịch soi chung vừng nguyệt tỏ.
Áo Trọng-Do[16] bạc thếch dãi xuân thu cho đượm sắc cần-lao. Cơm Phiến-mẫu[17] hẩm sì, đói tuế-nguyệt[18] phải ngậm ngùi tân khổ. Gió giăng rơi rụng để cái quyên gầy: — Sương tuyết hắt-hiu làm con nhạn võ.
Túi thanh-bạch ngược xuôi miền khách-địa[19], trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau; Đèn toan hàn thức nhắp mái nam-song, dăm ba ngọn lửa huỳnh khêu nho nhỏ.
Miệng châu-quế những rì-rầm học-vấn, chị chú Tô[20] căn-nhẳn chỉ hiểm nghèo. Vai tân sài đủng-đỉnh ngâm-nga, vợ anh Mãi[21] băn-khoăn từng kể khó.
Đói rau rừng thấy thóc Chu[22] mà trả; đá Thu-Dương[22] chơm-chởm, xanh mắt Di[22] nằm tốt ngáy o-o; khát nước sông trông dòng đục không vơ; Phao Vị-Thủy[23] lênh-đênh, bạc đầu Lã[23] ngồi dai ho lụ-khụ;
Trông ra nhấp-nhô sóng nhân tình; Ngảnh lại vật-vờ mây thế-cố[24].
Ngán nhẽ kẻ tham về khóa lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc; nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn; Quản bao kẻ mảng cái giàm danh; Áo giới-lân chùm dưới cơ-phu[25], mỏi gối quì mòn sân tướng phủ.
Khéo ứng thù những các quan trên, xin bái ngoảnh cùng anh phường-phố.
Khét mùi thế vị chẳng thà không; Thơm nức phương danh nên mới khổ.
Tình uốn-éo muốn vạch giời lên hỏi, nào kiếp Chử-Đồng đâu tá, nỡ hoài chi chén ngọc để trần-ai? Trí lẳng-lơ toan vượt bể đi tu, hỏi quê tiên-tử nơi mô, xin lĩnh lấy vân đan làm tế-độ.
Bài phú Dương-Hùng[26] dầu nghiệm tá thì xin quyết tống cùng thần ra đến miền Đông-Hải để ta đeo vòng thư-kiếm quyết xoay bạch-ốc lại lâu-dài. Câu văn Hàn-Dũ[27] phỏng thiêng chăng thì xin quyết tống cùng quỉ ra đến đất Côn-Lôn, để ta gánh vác giang-sơn, quyết ném thanh-khâm sang cẩm-tú.
Nhọc-nhằn cơn nhục mát cơn vinh; cay-đắng lúc cùng bù lúc phú.
Vậy có nhời nôm dặn bảo thế-gian rằng:
« Đừng thấy người bạch-diện thư-sinh mà cười rằng Đa cùng tài-tử ».

   




Chú thích

  1. Kim cài tóc và dải mũ: chỉ nơi khoa bảng quyền quý.
  2. Thứ mũ cổ của sĩ phu thường đội.
  3. Y Doãn và Phó Duyệt, hai bậc hiền tài đời Thương.
  4. Sổ sách.
  5. Nhân-Hồi, học trò của Khổng-Tử.
  6. Khổng-Tử, nhà hiền-triết đời Chu.
  7. Cá voi.
  8. Trình-Hiệu tức Trình-minh-Đạo, danh sĩ đời Tống thần Tông (1068-1086), học trò của Chu-đôn-Hi.
  9. Chu-đôn-hi danh sư đời Tống.
  10. Chuyện trò vui cười.
  11. Trích tiên: Tiên bị đày xuống trần thế. Danh hiệu mà người đồng thời đặt cho Lý Bạch.
  12. Đỗ Phủ tự Thiếu Lăng, thi hào đời Đường.
  13. Chùa tháp để thợ Phật.
  14. Người đi xa, cũng có nghĩa là người con ở xa cha mẹ.
  15. Tạo-hóa: Ông Trời, sinh hóa ra muôn vật.
  16. Trọng-Do hay Tử-Do tức Tử-Lộ học trò của Khổng-Tử.
  17. Bà Phiến-Mẫu - người đàn bà giặt vải, đã cho Hàn-Tín bát cơm ăn đỡ lòng khi khốn khó. Sau Hàn-Tín làm nên sự nghiệp hiển hách, kiếm đến bà để trả ơn thì bà đã mất. Tín có làm đền thờ để tạ ơn, có đề bốn chữ: "Nhật phạn thiên kim" nghĩa là "Một bát cơm tạ ơn nghìn vàng".
  18. Ngày tháng.
  19. Đất khách quê người.
  20. Tô-Tần - Người đời Chiến-quốc, trước cùng cực, chị khinh rẻ, vợ coi thường. Sau dốc chí học hành, làm tướng quốc sáu nước.
  21. Chu-mãi-Thần, người đời Hán, trước nghèo khốn, gánh củi để kiếm ăn mà học, sau hiển đạt.
  22. a ă â Bá-Di và Thúc-Tề hai nhà cao-sĩ, con vua Cỗ-Trúc đời nhà Thương. Chu vũ-vương diệt được nhà Thương, hai ông cho việc dùng thóc gạo nhà Chu để sống là xấu hổ. Sau lên ẩn tại núi Thu-Dương, ăn rau để sống. Rốt cuộc nhịn đói mà chết.
  23. a ă Lã-Vọng, tức Khương-Tử-Nha, hồi còn hàn-vi ngồi câu cá ở sông Vị-thủy. Sau ra giúp Chu-văn-Vương thành đại sự.
  24. Sự biến cố ở đời.
  25. Cơ phu nghĩa là như cơ-thể.
  26. Dương-Hùng nổi tiếng là tay giỏi phú đời Hán.
  27. Đại văn gia đời Đường.