Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/D
Giao diện
D
- Dân dĩ thực vi tiên.
Dân lấy ăn làm trước, nhà nước phải nuôi dân, có dân mới có nước, vật ăn là tánh mạng dân. - Dân dữ dân tề.
Dân nhơn ai nấy bằng nhau, không chỗ tây vị ; ai ai cũng là đầu đen máu đỏ. - Dân như gỗ tròn.
Nghĩa là lăn khiến bề nào cũng đặng. - Dẫn xà nhập huyết.
Đem rắn vào hang ; làm cho đắc thế. Tiếng tục hay nói sào huyệt, chánh nghĩa là ổ hang, mà hiểu ra thì là lục phá, chỉ mạch máu, đem đàng cho kẻ dữ, ấy là nghĩa dẫn xà nhập huyệt, hay là đem tới mà sào huyệt. - Danh ô nan thục.
Danh nhơ khó chuộc. Hễ là làm hư danh rồi thì khó lập lại cnùg khó mua tiếng tốt. - Dầu hèn cũng ngựa nhà quan, kiều khấu rách nát, hồng nhan hãy còn.
Cũng là câu hát. Thường nói về con dòng của giống hay là người học hành có tài đức, dầu phải lâm lụy, cũng còn cốt cách, hãy còn có chỗ dùng. - Dâu hiền là gái, rể thảo là trai.
Dâu rể thảo thuận, cha mẹ hai bên xem bằng con đẻ. - Dấu hoa vun cây.
Hễ thương bông mến nhánh, thì bồi dưỡng lấy gốc cây ; vì con cháu tưởng đến kẻ sanh thành. - Dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy thuở ban sơ mới về.
Có câu rằng : Măng chẳng uốn để ra tre uốn sao đặng ; có câu chữ rằng : Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài. - Dây dùi khó dứt.
Dây thang lắm hay là săn lắm, thì có ngày phải đứt. Hễ ở mềm mỏng dịu dàng thì đặng bền đỗ lâu dài. - Dĩ đào vi thượng sách.
Lấy sự trốn làm chước trên hết. Hộ thân có 36 chước mà có một chước lành mình là hay hơn. - Dĩ hòa vi quới.
Trong sự ở ăn phải lấy sự hoa hảo làm quí. - Dị kỳ tướng tất hữu dị kỳ tài.
Kẻ có tướng kỳ dị, ắt là có tài kỳ dị, ấy là phép coi tướng. - Dĩ noản kích thạch.
Lấy trấng mà chọi đá, hiểu nghĩa là một đàng yếu một đàng mạnh, chẳng có thế chi mà chống chỏi. - Dĩ nông vi bổn.
Sanh ý có bốn phép, là sĩ, nông, công, cổ, cũng gọi là tứ dân, có một sự làm rộng là cần nhứt, nên phải lấy nó làm căn bổn. - Di tửu vô lượng bất cập loạn.
Chỉn rượu không lường chẳng đến loạn. Nghĩa là uống rượu ít nhiều tùy theo độ lượng người, chớ để cho loạn tâm tánh. - Diện phục tâm bất phục.
Mặt phục mà lòng không phục : phục ấy là kính phục, chịu phục ; người ta nói dạ trước mặt thì là diện phục. - Diệt địa giai nhiên.
Đổi đất đều như nhau, hiểu nghĩa là người tài đức đổi đi đâu cũng tài đức. - Dinh, hư, tiêu, trưởng.
Nghĩa là đầy, lưng, mòn, lớn, thường nói về mặt trăng ; vận con người có khi đầy, khi vơi, khi mòn, khi lớn cũng như mặt trăng. - Dinh tất dật.
Nghĩa là đầy ắt có tràn, hễ là đầy lắm thì phải có tràn trề hư hao ; cho nên lý thạnh mãn nhi hậu tri chỉ, nghĩa là tới mực đầy rồi thì phải thôi. - Dò sông dò biển còn dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người.
Cũng là câu hát, nghĩa là lòng người nham hiểm không lẽ xét biết. - Dõng bất quá thiên, cường bất quá lý.
Nghĩa là mạng chẳng qua trời, cứng chẳng qua lý ; chẳng ai chống nổi việc trời, đến lẽ chánh chẳng ai thắng đặng, có câu rằng : lẽ thật phải mệt mà chẳng phải thua. Lại lý là lý thế phải chịu. - Dòng nào sanh giống ấy.
Nghĩa là rặc nòi, cũng như hổ phụ sanh hổ tử. - Dốt đặc như cán mai xay.
Nghĩa là dốt quá. - Dũ thiện nhơn giao như nhập chi lan chi thất, dữ ác nhơn giao như nhập bào ngư chi tứ.
Nghĩa là kết bạn người lành, thì như là vào trong nhà có cỏ chi cỏ lan thơm tho, kết bạn cùng đứa xấu thì như vào hàng cá mắm hôi hám. Một nghĩa với câu gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. - Dũ xu dũ hạ.
Nghĩa là càng chạy càng xuống, hiểu nghĩa là càng ngày càng sụt. - Du thủ du thực.
Nghĩa là ăn chơi luông tuồng. - Dục bải bất năng.
Muốn thôi chẳng đặng, thì chỉ nghĩa là chẳng có lẽ thôi, hoặc chẳng dám thôi. - Dục gia chi tội, hà hoạn vô từ,
Nghĩa là muốn gia tội cho, lo gì không tiếng nói. Nói tốt thì khó, muốn nói tội cho người ta và nhứt là kẻ bề trên muốn làm tội cho kẻ bề dưới, thì là đều rất dễ. - Dữ tu hành, hơn lành kẻ cướp.
Chiếu ứng với câu, bình phong tuy phá, cốt cách du tồn. - Dục tốt bất đạt.
Nghĩa là muốn mau chẳng xuôi, hễ táo cấp lắm, thì hay sanh đều ngăn trở. - Dùi đánh đục, đục đánh săng.
Hiểu nghĩa là cứ thứ mà làm, dồn lần cho đến nơi. - Dụng lòng không ai đụng thịt.
Tục đất nầy có kiến thịt, thì trọng tại bộ lòng, thiếu một vật trong bộ lòng thì là thất lễ ; lòng ấy thì là lòng kính vì, thảo lảo. - Dụng nhơn như dụng mộc.
Dụng người như dụng cây, chẳng vì một chút mục chút tì mà bỏ cả cây. Cầu sĩ mạc cầu toàn cũng vào một nghĩa ấy. - Dụng như hổ, bất dụng như thử.
Có dụng thì như cọp, không dụng thì như chuột. Nghĩa là người bất tài mà đăng yêu dùng, thì cũng hóa ra mạnh mẽ như cọp ; dẫu là người có tài, mà chẳng đặng yêu dùng, thì cũng trở nên yếu đuối như con chuột ; quí tại dùng cùng chăng. - Dương chất hổ bì.
Cốt là dê mà da cọp. Nghĩa là có vẻ bề ngoài mà thôi ; cốt dê thấy cỏ thì thèm, thấy muông lang thì sợ, quên cái da mình là cọp - Duồng gió bẻ măng.
Nghĩa là thừa thế mà làm, một ý với câu, chờ lụt dẩy rều, chẳng khác chi mượn thế lực mà làm sự gì hay là đệm luôn kẻ khác. - Dưỡng hổ di hoạn.
Nghĩa là nuôi cọp để hoạn lại sau. Cọp ấy thường hiểu là người gian ác, nếu làm ơn cho nó, hay là nuôi dưỡng lấy nó, thì nó sẽ dĩ ân báo oán hay là sẽ làm hại cho mình. - Dưỡng lão khất ngôn.
Nghĩa là nuôi kẻ già cả mà xin tiếng nói, hay là học khôn, kẻ già cả phải am tường sự lý cùng trải việc hơn người trẻ tuổi. - Dương thuận âm vi.
Dương là bề ngoài, âm là bề trong, chỉ nghĩa là làm mặt thuận hòa, mà trong lòng thì ngạnh. - Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân.
Có nuôi con mới biết ơn cha mẹ ; đàng chẳng đi chẳng đến, hễ đến, mới biết sự khó nhọc mình thì là sự khó nhọc cha mẹ. - Dứt cây ai nỡ dứt chồi.
Cây có ngăn trở thì dứt cái cây, chồi còn nhỏ vô can, không đành lòng dứt ; giả như dứt nghĩa vợ, còn nghĩ tới con. Hễ dấu hoa thì phải vun cây. - Duyên ai nấy gặp.
Có ý nói về việc vợ chồng, có câu rằng : Lương duyên do túc đế, giai ngẫu tự thiên thành, nên vợ nên chồng đều có duyên số, khống phải là việc tình cờ ; hiểu ra nghĩa chung, thì là may ai nấy gặp. - Duyện mộc cầu ngư.
Nghĩa là leo cây tìm cá, thì là cầu sự chẳng có.