Tự thuật ký

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tự thuật ký  (1834) 
của Lý Văn Phức

Bài ký này do Lý Văn Phức làm bằng chữ Nôm năm Minh Mạng thứ 15 (1834) khi vâng mệnh công cán ở Áo Môn trở về. Bài này làm theo thể tứ lục. Có tài liệu chép là Tự thuật phú.

Ở cõi trời Nam; có người đất Bắc.
Dòng thi-lễ vốn Minh-triều tạt lại; áng binh-qua vừa Lê mạt xuống sinh.
Nhờ nghĩa-phương từ bé chút từng nghe, dưới sân nghiêm mắt quở tai răn, tính du-đãng uốn lần cho nhập giáo, — theo học-nghiệp đã lớn khôn biết nghĩ, bên trướng ráng sớm ôn tối đọc, việc tập-tành gắng mãi cũng thành danh.
Vận đổi-xoay vừa chán cuộc tang thương; — cơ bình-trị sớm rạng vừng thiên-nhật.
Khoa đinh-mão cũng nước bầu cơm gói, tiếc lẽ đi không về luống, kỳ tứ-trường còn nhượng bảng Tôn-sơn; — chốn Tràng-an thời củi quế gạo châu, lấy gì ngọt thảo bùi thơm, đường bách lý những ghi lời Tử-lộ.
Nghề buôn bán tay không khôn vỗ; — bước khó-khăn đầu gối hay bò.
Cất mình đi đem lưỡi bút thay cày, hết miền Cổ-nhuế, lại Phố Thăng-Long, nhờ lộc thánh đã giúp công rèn tập; — làm thế lại giở túi nghề đãi khách, nay số Tử-vi, mai pho Dã-hạc, mượn giá thầy cho đắc tướng xem coi.
Nhân cùng trí đoản, hết nói khôn ngoan; — bĩ cực thái lai, là nhờ vận chuyển.
Trường ất-mão may tên dự hương-tiến, hàng thường lệ nối liền ba nhánh, công sinh-thành đã hớn-hở mẹ cha; — năm canh-thìn vàng ứng chiếu hạ trưng, cánh tiêu-liêu gửi ghé một cành, đường vinh-đạt cũng theo đòi bạn hữu.
Ti-lạp chung nhờ lộc nước; — đẩu-thăng riêng thiết nỗi nhà.
Trông quảng mây che đỉnh Hỗ khuất đi, một phong thư lặn suối trèo non, mở ra xem giấy thảm mực sầu, kêu trời thẳm những cắt lòng nơi lữ-xá; — đội vừng nguyệt chỉ quê Phần ruổi lại, hai tháng hạn nằm rơm gối đất, tả chưa hết dòng thương giọt tủi, là mẹ già thôi trở gót chốn thần-kinh.
Yên phận rồi, đâu để nỗi gia-tình; — gác chữ hiếu phải chăm bề công-sự.
Tài sơ-thiển chực một bề tôm-tép, lần lữa mưa sương nắng nguyệt, trữ tháng ngày nên dự số công-lao; — duyên tao-phùng may nghìn thuở rồng mây, vẻ-vang áo mãng đai mồi, tuôn mưa móc thấm cả mình bố-tố.
Đường mây thanh-thả, khi quận khi triều; — bể hoạn chập-chờn, có vinh có nhục.
Vinh thay buổi ra vào nơi điện bệ, phận hàn-sĩ thoát nhảy ngôi quan cả: tuy chẳng được bảng vàng bia đá, nghĩ lại sáu bảy năm chừng ấy, tám chín phần đã trả nợ sách đèn; — nhục thay khi ngồi đứng gốc hành-dương, thân á-khanh cam sánh kẻ lính già: gượng cho qua cháo muối cơm rau, tính dồn ba bốn tháng dài ghê, trăm nghìn nỗi đủ nếm mùi cay đắng.
Tội thần-tử dẫu búa rìu cũng đáng, — ơn thánh minh rồi, sấm sét lại qua.
Lầu thái-vận đâu nẩy xuống tiếng tơ, may bóng dương còn soi đến dấu bèo, nét son thắm sáng lòe nha ngục-thất; — khối bạch-cốt bỗng nở dần gân thịt, nhờ hòn đất lại nặn nên ông bụt, giấc mộng tàn tỉnh cả chốn cư-đình.
Trải nhục rồi, mới biết thuở xưa vinh; — được sống lại, dám quản đâu là thác.
Đếm với bể đã sáu lần thiệp-lịch, sóng gió kể bao phen chìm nổi, chắc trong mình vâng có mệnh quân-vương; — góp non sông vào mấy quyển phẩm-đề, bút nghiên là vốn nghiệp xưa nay, mở con mắt ngó cùng nơi dị-vực.
Trong sai khiến ấy là huấn-hối; — sức hẹp-hòi thêm được kiến-văn
Đành tấm-thân nhờ đào-tạo còn dày, xếp đắc-táng có bàn chi sự cũ; — cầm tấc dạ với quỉ thần không hổ, miễn thủy-chung cho chớ phụ ơn trên.
Buồm thênh-thênh hầu dâng bảng hồi-sai; bút thảo-thảo gói ghi thiên tự-thuật.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.