Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu đính)/Hồi 2

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ HAI

Trương Dực Đức giận đánh Đốc Bưu
Hà quốc cữu mưu giết Hoạn Thụ

Đổng Trác tên chữ là Trọng Dĩnh, quê ở huyện Lâm-thao, quận Lũng-tây, làm quan thái thú ở Hà-đông, xưa nay vốn tính kiêu ngạo. Lúc ấy vì khinh ba anh em Huyền Đức, nên Trương Phi nổi nóng muốn vào giết ngay. Huyền Đức, Quan Công vội ngăn mà rằng:

- Không nên, hắn là quan triều đình, em chớ nên tự tiện giết hắn.

Phi nói:

- Nếu không giết nó, mà lại ở đây làm đày tớ cho nó sai khiến, thì tôi không thể chịu được. Nếu hai anh muốn ở đây thì tôi xin đi ngay nơi khác.

Huyền Đức nói:

- Ba anh em kết nghĩa cùng sống chết, sao nỡ lìa nhau. Thôi cùng đi nơi khác là tiện hơn cả.

Phi nói:

- Có như thế thì cái tức này mới hơi hả.

Ngay đêm ấy ba người dẫn quân đến ở với Chu Tuấn. Tuấn khoản đãi rất hậu, cùng nhau hợp quân, tiến đánh Trương Bảo.

Bấy giờ Tào Tháo đương theo Hoàng phủ Tung đánh Trương Lương, hai bên đánh nhau một trận ở Khúc-dương rất lớn.

Bên này Chu Tuấn tiến đánh Trương Bảo, Bảo dẫn tám chín vạn quân đóng ở mé sau núi. Tuấn sai Huyền Đức dẫn đội tiên phong ra đối địch với giặc. Trương Bảo sai phó tướng Cao Thăng phi ngựa ra thách đánh, Huyền Đức sai Trương Phi cự với Cao Thăng. Phi phóng ngựa cầm mâu cùng Thăng giao chiến, chưa được vài hiệp đã đâm Thăng ngã ngựa. Huyền Đức thúc quân xông lên, Trương Bảo ngồi trên ngựa, xõa tóc múa gươm giở yêu thuật, phút chốc sấm gió ầm ầm, một luồng khí đen tự trên không tỏa xuống, trong luồng khí đen có vô số người ngựa xông ra, quân Huyền Đức sợ hãi rối loạn, Huyền Đức vội vàng thu quân về, cùng Chu Tuấn bàn mưu định kế. Tuấn nói:

- Nó dùng yêu thuật thì ta phá cũng dễ. Ngày mai nên sai quân chứa sẵn máu lợn, máu chó phục ở trên núi, đợi quân giặc kéo đến, đứng trên vảy xuống, tự khắc giải được phép yêu.

Huyền Đức tuân lệnh, sai Quan Công, Trương Phi mỗi người dẫn một nghìn quân đem sẵn máu chó, máu lợn và đồ uế vật phục trên đỉnh núi.

Hôm sau Trương Bảo lại kéo cờ gióng trống đem quân đến thách đánh. Huyền Đức tự ra nghênh địch. Trương Bảo lại dùng phép yêu, phút chốc gió, sấm nổi lên, cát đá tung trời, trong luồng khí đen kéo ra vô số người ngựa. Huyền Đức quay ngựa chạy, Trương Bảo thúc quân đuổi theo, khi vào đến gần núi, quân mai phục của Quan, Trương nổ một tiếng trống lệnh, uế vật vung ra, tức thì những người ngựa bằng giấy tự trên không rơi xuống, sấm gió yên lặng, cát đá không bay nữa.

Trương Bảo thấy phép yêu đã bị phá, vội vã lui quân, song tả có Quan Công, hữu có Trương Phi, hai bên đổ ra, sau lưng có Huyền Đức, Chu Tuấn kéo đến, quân giặc bị thua to. Huyền Đức trông thấy hiệu cờ “Địa công tướng quân” phi ngựa đuổi theo. Trương Bảo cuống cuồng chạy trốn, Huyền Đức bắn ngay một phát tên trúng cánh tay trái, Trương Bảo đeo tên cố chết mà chạy vào Dương-thành, đóng chặt cửa không dám ra nữa.

Chu Tuấn đem quân vây thành, một mặt sai người đi dò, xem tin tức Hoàng phủ Tung. Thám tử về báo:

- Hoàng phủ Tung đánh trận nào thắng trận ấy. Triều đình thấy Đổng Trác thua luôn, hạ lệnh cho Tung thay Trác. Lúc Tung đến nơi thì Trương Giốc đã chết rồi. Trương Lương thống xuất cả quân ấy cùng quân Tung chống cự, bị Tung đánh thắng luôn bảy trận chém được Trương Lương ở Khúc-dương. Trương Giốc chết rồi cũng bị quật mả, cắt lấy thủ cấp đem về bêu ở kinh sư, còn quân giặc ra hàng hết cả.

Hoàng phủ Tung có công, triều đình gia phong làm Sa kỵ tướng quân, lĩnh chức Ký-châu-mục.

Hoàng phủ Tung dâng biểu tâu Lư Thực có công không tội, triều đình lại cho Lư Thực giữ nguyên chức cũ. Tào Tháo cũng có công, được thăng Tế-nam-tướng, sắp sửa ban quân phó nhậm.

Chu Tuấn nghe nói, hạ lệnh thúc quân hết sức đánh lấy Dương-thành. Thế giặc bấy giờ rất nguy khốn. Một tên tướng giặc là Nghiêm Chánh đâm chết Trương Bảo, cắt lấy thủ cấp đầu hàng. Chu Tuấn đem quân bình luôn được mấy quận, rồi dâng biểu tâu bày việc thắng trận.

Bấy giờ còn ba tên dư đảng giặc khăn vàng là Triệu Hoằng, Hàn Trung và Tôn Trọng, hợp quân vài vạn, đi đến đâu cũng cướp của đốt nhà, nói là báo thù cho Trương Giốc. Triều đình giáng chỉ cho Chu Tuấn đem quân đắc thắng đi đánh. Tuấn vội vàng dẫn quân tiến ngay.

Lúc ấy giặc đương chiếm giữ Uyển-thành, Tuấn đem quân đến đánh, Triệu Hoằng sai Hàn Trung ra đối địch.

Tuấn phái Huyền Đức, Quan, Trương đánh góc thành tây-nam. Hàn Trung sợ góc tây-nam thất thủ, đem hết quân tinh nhuệ ra chống cự. Chu Tuấn đem hai nghìn quân thiết kỵ đến đánh góc đông-bắc, giặc sợ thành hãm, vội bỏ góc tây-nam. Huyền Đức đem quân đánh mạnh đằng sau, quân giặc thua to, phải chạy vào thành. Chu Tuấn chia quân vây kín bốn mặt, trong thành lương cạn, Hàn Trung sai người ra xin hàng. Tuấn không cho. Huyền Đức nói: - Xưa vua Cao Tổ lấy được thiên hạ, cũng vì hay chiêu kẻ hàng, dong kẻ thuận, nay Hàn Trung đã hàng thuận, sao ông không cho?

Tuấn nói:

- Cái đó mỗi lúc mỗi khác, không thể câu nệ được. Xưa vào đời Tần, Sở, thiên hạ rối loạn, dân không biết ai là chủ, cho nên chiêu kẻ hàng, thưởng kẻ phục để khuyến khích kẻ khác về với mình. Nay bốn bể đã về một mối, chỉ có giặc khăn vàng phản nghịch, nếu dong cho nó hàng, thì không sao khuyên được người lương thiện. Bọn giặc lúc đắc ý thì tha hồ giết người cướp của, lúc bị thua lại ra đầu hàng. Nếu nhận cho chúng đầu hàng, tức là nuôi cái mầm phản nghịch cho chúng nó, không phải là chính sách hay.

Huyền Đức nói:

- Ngài dạy cũng phải, nhưng bây giờ bốn mặt thành vây kín như bờ rào sắt, giặc xin hàng không được, tất nhiên phải cố chết mà đánh. Nghìn người một bụng còn khó đương nổi, nữa là trong thành còn những mấy vạn người liều mạng. Chi bằng bỏ trống hai mặt đông, nam, chỉ đánh hai mặt tây, bắc. Giặc thấy có đường tháo, tất bỏ thành mà chạy, không còn bụng nào ham đánh, ta có thể bắt sống được chúng.

Tuấn lấy làm phải, lập tức hạ lệnh rút quân hai mặt đông, nam, dồn lại đánh vào mặt tây mặt bắc. Quả nhiên Hàn Trung dẫn quân bỏ thành chạy. Tuấn cùng Huyền Đức, Quan, Trương thúc quân đuổi đánh, bắt chết Hàn Trung, quân giặc đều tan vỡ chạy trốn.

Trong khi đang đuổi đánh xô xát, gặp ngay Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến, cùng Tuấn đánh nhau. Tuấn thấy quân Hoằng thế mạnh, đem quân tạm lui. Hoằng thừa thế lại cướp được Uyển-thành. Tuấn đóng trại cách thành mười dặm để đánh vào.

Chu Tuấn đang sắp sửa đánh thành, bỗng thấy một toán ngựa tự phía đông dẫn đến, một viên tướng đi đầu mặt to trán rộng, mình hổ lưng gấu.

Tôn Kiên. Tranh minh họa đời Thanh.

Tướng ấy họ Tôn tên Kiên, tên chữ là Văn Đài, dòng dõi Tôn Vũ ngày xưa, quê ở huyện Phú-xuân thuộc Ngô-quận.

Tôn Kiên năm mười bảy tuổi, một hôm cùng cha đi thuyền đến sông Tiền-đường, thấy một bọn giặc bể hơn mười đứa vừa cướp được tiền của khách buôn, đang chia nhau ở trên bờ. Kiên nói với cha rằng: “Con xin lên bắt lũ giặc này”. Bèn cầm đao nhảy vọt lên bờ, vừa múa đao vừa thét, chỉ đông chỉ tây như cách ra hiệu gọi người. Giặc tưởng quan quân đến, bỏ hết của cải chạy trốn. Kiên đuổi giết được một đứa, bởi thế nổi tiếng ở mấy quận huyện, được tiến cử làm chức hiệu-úy. Sau quân Cối-kê có đứa yêu tặc là Hứa Xương làm phản, tự xưng là Dương-minh hoàng-đế, tụ họp đến mấy vạn quân. Kiên cùng quan tư-mã quận ấy chiêu mộ dũng sĩ được hơn nghìn người hợp với quân mấy châu quận đánh tan giặc ấy, chém được Hứa Xương và con là Hứa Thiều. Quan thứ-sử Tang Mân dâng biểu tâu công cho Kiên, triều đình bổ Kiên làm quan thừa ở Giêm-độc; sau lại đổi làm thừa ở Vu-thai, làm thừa ở Hạ-bì. Nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, Kiên tụ tập thiếu niên trong làng cùng bọn khách buôn và quân tinh binh ở Hoài, Tứ cả thảy được một nghìn năm trăm người, dẫn đến tiếp ứng.

Chu Tuấn cả mừng, liền sai Kiên đánh cửa nam, Huyền Đức đánh cửa bắc, Tuấn tự đánh cửa tây, để cửa đông cho giặc chạy.

Tôn Kiên đi trước nhảy lên thành, chém luôn hơn hai mươi tên giặc, quân giặc sợ hãi bỏ chạy. Triệu Hoằng cầm giáo phi ngựa ra địch Tôn Kiên. Kiên bèn tự trên mặt thành nhảy xuống, cướp giáo của Hoằng đâm Hoằng ngã ngựa, rồi lại nhảy lên ngựa Hoằng xông vào giết giặc.

Tôn Trọng dẫn quân lẻn ra cửa bắc, gặp ngay Huyền Đức, không còn bụng nào đối địch, chỉ chực chạy thoát thân. Huyền Đức bắn một phát tên, Trọng tự trên ngựa lăn xuống.

Lúc ấy đại quân Chu Tuấn tự sau dồn đến, chém được vài vạn đầu giặc. Giặc đầu hàng không biết bao nhiêu mà kể. Một dải Nam-dương hơn mười quận đều yên. Tuấn ban quân về kinh, được phong làm sa-kỵ tướng-quân, lĩnh chức Hà-nam lệnh-doãn.

Tuấn dâng biểu tâu công Tôn Kiên và Lưu Bị. Vì Kiên có thầy thợ tay trong, nên được bổ làm Tư-mã đi nhậm chức ngay. Còn Lưu Bị chờ đợi mãi vẫn không được bổ dụng. Ba người buồn bã không vui, một hôm đi chơi rong đường phố, gặp quan lang-trung Trương Quân. Huyền Đức đến chào, nhân kể luôn công mình đánh giặc cho Quân nghe. Quân lấy làm kinh ngạc, bèn vào triều bệ kiến, và tâu rằng:

- Trước đây giặc khăn vàng phản nghịch, căn do cũng bởi bọn thường-thị mười người bán quan buôn tước, phi người thân không dùng, phi kẻ thù không giết, cho nên thiên hạ rối loạn. Xin bệ hạ sai chém ngay mười tên này, bêu đầu ở Nam-giao, rồi sai sứ giả đi bố cáo thiên hạ, ai có công trọng thưởng ngay. Như thế thì bốn bể tự khắc bình yên.

Mười thường-thị vội tâu vua rằng:

- Trương Quân đặt điều tâu bậy, đáng tội khi quân.

Vua sai võ sĩ đuổi Trương Quân ra.

Mười thường-thị bàn với nhau rằng: “Chắc hẳn có kẻ nào có công đánh giặc khăn vàng chưa được bổ dụng nên sinh ra oán hận. Ta hãy bảo nha môn ghi tên một số người, cất nhắc cho họ một chút, rồi sau sẽ liệu”.

Bởi vậy Huyền Đức được bổ làm quan úy huyện An-hỷ, và phái đi nhậm chức ngay.

Huyền Đức giải tán cho quân về làng, chỉ đem theo hơn hai mươi người thân tùy, cùng Quan, Trương đến huyện An-hỷ, làm việc quan suốt một tháng, chẳng lấy lễ của dân một chút gì, nên ai nấy đều cảm phục. Sau khi nhậm chức, cùng Quan, Trương ăn một mâm, nằm một chiếu; khi Huyền Đức ngồi chỗ đông người, thì Quan, Trương đứng hầu hai bên, cả ngày không biết mỏi.

Đến huyện chưa được bốn tháng, bỗng triều đình xuống chiếu: “Những người nào có công đánh giặc mà làm trưởng lại, thì đều bị thải hồi”.

Huyền Đức nghĩ mình có lẽ cũng ở trong số bị thải ấy, còn đang nghi hoặc, bỗng thấy báo có quan thanh tra là Đốc Bưu đến huyện. Huyền Đức vội đi đón tiếp. Lúc gặp Đốc Bưu, Huyền Đức vái chào một cách cung kính, Đốc Bưu ngồi trên mình ngựa, chỉ vẫy đầu roi đáp lại. Quan, Trương thấy vậy, tức giận vô cùng.

Khi đến nhà quán dịch (nhà để tiếp các quan to), Đốc Bưu ngoảnh mặt hướng nam ngồi cao ngất ngưởng. Huyền Đức đứng hầu ở dưới thềm. Lúc lâu Đốc Bưu cất tiếng hỏi:

- Thầy huyện Lưu do chân gì xuất thân?

Huyền Đức đáp: - Bị này dòng dõi Trung-sơn Tĩnh Vương, khởi thân từ Trác-quận, chém giết giặc khăn vàng, lớn nhỏ hơn ba mươi trận đánh, có chút công lao, nên được bổ chức này.

Đốc Bưu thét mắng:

- Mi giả mạo hoàng thân, báo càn công trạng, hiện nay triều đình xuống chiếu, chính để thải bớt những bọn tham quan ô lại như mi đó!

Huyền Đức vâng dạ luôn mấy tiếng, lui về huyện nha, cùng viên đề lại bàn tính. Đề lại nói:

- Lão Đốc Bưu làm dữ như vậy, chẳng qua chỉ chực đòi của đút đấy thôi.

Huyền Đức nói:

- Ta không tơ hào của dân một tý gì, lấy đâu mà cung đốn hắn?

Ngày hôm Đốc Bưu đòi đề lại đến trước, bắt ép phải khai man là quan huyện hại dân.

Huyền Đức mấy lần đến để kêu van, cũng bị quân gác cửa không cho vào.

Lúc ấy Trương Phi vừa uống mấy chén rượu giải buồn, cưỡi ngựa đi chơi phiếm qua nhà quán dịch, thấy năm, sáu mươi ông già đang khóc than ở trước cửa. Phi hỏi cớ sao thì các lão đều nói:

- Đốc Bưu cố ép đề lại khai man để hại ông Lưu. Chúng tôi biết tin, đến đây kêu giúp, nhưng không cho vào, lại sai quân gác cửa đánh đuổi chúng tôi.

Trương Phi cả giận, giương mắt tròn xoe, hai hàm răng nghiến ken két, nhảy vùng ngay xuống ngựa, chạy sấn vào nhà quán dịch, những quân gác cửa không tài nào cản lại được. Phi chạy thẳng vào hậu đường, thấy Đốc Bưu đang ngồi chĩnh chện trên sảnh, đề lại bị trói ở dưới đất. Phi thét lớn lên rằng:

- Thng mọt dân kia! Có biết ta là ai không?

Đốc Bưu chưa kịp nói câu gì, đã bị Trương Phi túm tóc lôi tuột ra ngoài quán dịch, kéo thẳng về trước huyện, trói vào tầu ngựa, rồi bẻ cành liễu đánh vào hai mông đít Đốc Bưu, đánh gãy luôn đến hơn mười cành liễu.

Huyền Đức đang lúc ngồi buồn, bỗng nghe ngoài cửa huyện có tiếng xôn xao bèn hỏi, tả hữu nói rằng:

- Trương tướng quân đang trói đánh một người nào ở cửa huyện.

Huyền Đức vội chạy ra xem, tưởng trói đánh ai, té ra là quan Đốc Bưu! Huyền Đức kinh ngạc, hỏi đầu đuôi.

Phi nói:

- Cái thằng hại nước mọt dân này, chẳng đánh cho chết còn đợi đến bao giờ!

Đốc Bưu kêu:

- Ông Huyền Đức ơi! Cứu tôi mấy!

Huyền Đức vốn người nhân từ, trong lòng không nỡ, liền bảo Trương Phi không được đánh nữa.

Quan Công cũng chạy lại nói rằng:

- Huynh trưởng làm nên biết bao công lớn, chỉ mới được bổ chức huyện úy nhỏ mọn này. Nay lại còn bị thằng Đốc Bưu nó sỉ nhục. Tôi nghĩ cái bụi chông gai không phải là nơi chim loan hoàng đậu. Bất nhược ta giết quách thằng Đốc Bưu này đi, rồi bỏ quan về làng, mưu tính việc lớn còn hơn.

Huyền Đức bèn đem thao ấn treo vào cổ Đốc Bưu mà mắng rằng:

- Cứ cái tội mày hại dân, đáng nên giết chết mới phải, nhưng tao hãy tạm tha cho mày. Thao ấn đây, tao trả chúng mày. Từ nay chúng tao không ở đây nữa.

Đốc Bưu được sống sót, về nói với quan thái thú Định-châu, quan thái thú tư giấy đi các nơi, sai người nã bắt anh em Huyền Đức.

Huyền Đức cùng Quan, Trương sang Đại-châu ở với Lưu Khôi. Khôi thấy Huyền Đức là người tôn thất nhà Hán, bèn giấu ở trong nhà, không cho ai biết.

Nói về mười tên thường-thị, trong tay đã giữ trọng quyền, bèn bàn tính với nhau: hễ ai không theo chúng đều giết đi cả. Triệu Trung, Trương Nhượng sai người đến yêu sách các tướng có công phá giặc khăn vàng ngày trước phải lễ vàng bạc mới được làm quan, bằng không thì tâu vua bắt bãi chức. Vì lẽ ấy mà Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn không chịu đút lót, đều bị bãi cả. Vua lại phong Triệu Trung làm sa-kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng mười ba người đều phong tước hầu, triều chánh mỗi ngày một suy đồi, nhân dân đâu cũng ta oán.

Bởi thế ở Trường-sa có Khu Tinh nổi loạn, ở Ngư-dương có Trương Thuần, Trương Cử làm phản. Cử tự xưng là thiên-tử, Thuần xưng là đại tướng quân. Những tờ biểu cáo cấp gửi về triều nhiều như bướm bay, bọn thường-thị đều giấu cả, không tâu vua biết.

Một hôm vua đang cùng mười kẻ thường-thị uống rượu ở vườn hoa sau cung, bỗng thấy quan gián-nghị đại-phu Lưu Đào đi tắt đến trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi vì cớ gì. Đào nói:

- Cái cơ thiên hạ nguy ngập đã hiện ra trước mắt, bệ hạ còn cứ vui say tỉnh với bọn yêm hoạn như thế ru?

Vua nói:

- Nhà nước yên ổn có việc gì mà nguy ngập?

- Tâu bệ hạ! Hiện nay giặc cướp nổi lên tứ tung, xâm chiếm khắp các châu quận, cái vạ ấy đều bởi mười đứa thường-thị bán quan hại dân, lừa dối quân thượng mà ra cả. Cho nên những người chính nhân quân tử bỏ đi hết cả. Đó là vạ nguy đã ở ngay trước mắt rồi còn gì?

Mười kẻ thường-thị đều phủ phục trước mặt vua, tâu rằng:

- Muôn tâu thánh thượng, quan đại thần đã không lượng bao dong, thì chúng tôi biết mình chẳng thoát. Cúi xin thánh thượng cho toàn tính mạng được về quê quán, tình nguyện đem hết gia sản giúp đỡ việc quân.

Nói đoạn đều khóc nức nở.

Vua cả giận mắng Đào rằng:

- Nhà ngươi cũng có người hầu hạ, sao không cho trẫm có người hầu hạ?

Tức thì sai võ sĩ lôi Lưu Đào ra chém.

Lưu Đào vừa đi vừa kêu lớn rằng:

- Trời ôi! Đào này chết không đáng tiếc, chỉ tiếc cái cơ nghiệp nhà Hán hơn bốn trăm năm đến nay tiêu diệt trong khoảnh khắc!

Võ sĩ đem Lưu Đào ra, sắp hành hình thì có một quan đại thần nói to lên rằng:

- Khoan, không được hạ thủ vội, đợi ta vào can vua đã.

Chúng nhìn xem ai, thì là quan tư-đồ Trần Đam.

Đam đi tắt vào cung tâu rằng:

- Tâu bệ hạ! Chẳng hay Lưu gián-nghị can tội gì mà bị giết?

Vua phán:

- Nó dám gièm pha cận thần của trẫm, lại xúc phạm cả trẫm nữa.

Đam tâu:

- Hiện thiên hạ ai cũng muốn nuốt sống ăn tươi mười tên thường-thị. Vậy mà bệ hạ kính nó như cha mẹ. Chúng không có một chút công nào mà được phong đến tước hầu. Huống chi lũ Phong Tư kết liên với giặc khăn vàng, toan làm tay trong cho chúng nó, bệ hạ cũng biết đấy. Nay nếu bệ hạ không tỉnh ngộ, xã tắc đến đổ mất.

Vua phán:

- Phong Tư làm loạn, sự đó mập mờ chưa rõ, còn trong bọn thường-thị mười người, há không có một hai người trung nghĩa hay sao?

Trần Đam đập đầu xuống đất, cố can.

Vua nổi giận, sai lôi Đam ra, bắt bỏ ngục cùng với Lưu Đào.

Ngay đêm hôm ấy bọn thường-thị vào ngục giết cả hai người rồi giả làm chiếu chỉ nhà vua cử Tôn Kiên làm thái-thú Trường-sa và đem quân đi đánh Khu Tinh. Chưa đầy năm mươi ngày có tin báo thắng trận, khu Giang-hạ đều bình định cả. Vua xuống chiếu phong Kiên làm Ô-trình-hầu, phong Lưu Ngu làm quan mục U-châu, đem quân đến Ngư-dương đánh Trương Thuần, Trương Cử. Lưu Khôi được tin, bèn viết thư tiến dẫn Huyền Đức. Ngu mừng lắm, cử Huyền Đức làm quan đô-úy, đem quân đến tận tổ giặc, đánh mấy trận lớn, giặc bị thua luôn. Trương Thuần tính vốn hung bạo, không được lòng dân, bị tên thủ hạ chặt đầu đem nộp rồi dẫn quân ra hàng.

Trương Cử biết thế mình không sao địch nổi, cũng tự thắt cổ chết.

Thế là cõi Ngư-dương đều bình định cả.

Lưu Ngu dâng biểu tâu công lớn của Lưu Bị. Triều đình tha tội đánh Đốc Bưu và bổ làm quan thừa ở Hạ-mật, sau lại nhắc làm quan úy ở Cao-đường. Công tôn Toản lại dâng biểu tâu công đánh giặc trước của Huyền Đức và tiến cử làm quan tư-mã, lĩnh chức huyện lịnh Bình-nguyên. Huyền Đức ở Bình-nguyên nhờ có lương tiền và quân mã, nên có vẻ phong quang dễ chịu hơn trước. Lưu Ngu cũng có công dẹp giặc, nên được thăng làm thái-úy.

Tháng tư, mùa hạ năm Trung Bình thứ sáu (189) vua Linh-đế bệnh nặng, triệu quan đại tướng quân Hà Tiến vào cung, bàn tính mọi việc quan trọng về sau.

Nguyên Hà Tiến vốn xuất thân con nhà hàng thịt, vì có em gái lấy vua, sinh được hoàng tử tên là Biện nên được lập làm hoàng hậu, và Tiến nhờ đó được quyền cao chức trọng.

Vua lại yêu mến một mỹ nhân nữa họ Vương, sinh được hoàng tử tên là Hiệp. Hà-hậu ghen ghét, bỏ thuốc độc giết Vương mỹ nhân, nên hoàng tử Hiệp phải nuôi ở trong cung Đổng thái-hậu.

Đổng thái-hậu là mẹ vua Linh-đế, nguyên là vợ Giải-độc đình-hầu Lưu Thường. Bởi khi trước vua Hoàn-đế không có con trai, phải đón con trai Giải-độc đình-hầu lên làm vua, tức là vua Linh-đế. Linh-đế lên ngôi, bèn đón mẹ vào phụng dưỡng ở trong cung và tôn làm thái-hậu.

Đổng thái-hậu thường khuyên vua lập hoàng tử Hiệp làm thái tử để nối ngôi vua về sau. Vua cũng yêu Hiệp hơn, nên có ý muốn lập Hiệp. Lúc ấy bệnh vua đã nguy, trung-thường-thị là Kiển Thạc tâu rằng:

- Tâu bệ hạ! Việc này quan hệ rất lớn, nếu muốn lập hoàng tử Hiệp, trước hết xin giết Hà Tiến mới khỏi lo ngại về sau.

Vua lấy làm phải, giáng chỉ vời Tiến vào cung. Tiến vừa đi đến cửa cung, gặp quan tư-mã Phan Ẩn bảo Tiến rằng:

- Đừng vào cung, Kiển Thạc nó định mưu giết ông đấy!

Tiến cả sợ, vội về nhà, triệu các quan đại thần đến hội nghị, muốn giết hết cả bọn hoạn quan.

Một người đứng lên nói:

- Thế lực của bọn hoạn quan, gây ra tự đời vua Xung vua Chất, ngày nay lan rộng khắp cả trong triều, giết hết thế nào được. Nếu cơ mưu không kín, chết đến cả họ ngay, vậy xin nghĩ cho kỹ.

Tiến nhìn xem ai, thì là quan điển-quân hiệu-úy Tào Tháo.

Tiến mắng Tháo rằng:

- Trẻ con, biết đâu việc lớn của triều đình!

Đang lúc dùng dằng chưa quyết, Phan Ẩn chạy đến báo rằng:

- Linh-đế đã băng hà rồi, hiện Kiển Thạc đang bàn với mười kẻ thường-thị định giấu kín không phát tang. Một mặt giả làm chiếu chỉ, triệu Hà quốc-cữu vào cung, giết đi, rồi lập hoàng tử Hiệp lên ngôi vua.

Nói chưa dứt lời, có sứ giả đến triệu Tiến vào cung.

Tào Tháo nói:

- Việc cốt yếu bây giờ, phải lập vua trước đã, rồi sau hãy nói đến việc trừ giặc.

Tiến nói:

- Có ai dám cùng ta vào cung lập vua mới và đánh giặc không?

Một người đứng phắt dậy nói rằng:

- Tôi xin đem năm nghìn tinh binh, chém khóa cửa cung vào lập vua mới, và giết hết bọn hoạn quan, quét sạch trong triều để yên thiên hạ.

Viên Thiệu. Tranh minh họa đời Thanh.

Tiến nhìn xem, thì người ấy là con quan tư-đồ Viên Phùng, cháu Viên Ngỗi, tên là Thiệu, tên chữ là Bản Sơ, hiện làm quan tư-lệ hiệu-úy.

Tiến cả mừng, bèn điểm năm nghìn quân ngự lâm giao cho Viên Thiệu. Thiệu nai nịt đem quân đi trước. Hà Tiến dẫn bọn Hà Ngung, Tuân Du, Trịnh Thái, hơn ba mươi quan đại thần đi sau, cùng vào trong cung, đến trước linh cữu vua Linh-đế lập thái tử Biện lên làm vua. Các quan tung hô xong đâu đấy, Viên Thiệu bèn đi vào cung bắt Kiển Thạc. Thạc kinh hoảng chạy nấp vào dưới bụi cây trong vườn ngự uyển, bị trung-thường-thị là Quách Thắng giết chết. Quân cấm binh do Thạc quản lĩnh đều ra hàng thuận hết cả. Viên Thiệu nói với Hà Tiến rằng:

- Bọn trung-quan trước kết đảng với nhau, bây giờ nên thừa thế giết cả đi.

Bọn Trương Nhượng biết tin, sợ hãi hết hồn, vội chạy vào cung van lạy tâu Hà-hậu rằng:

- Bày mưu hại quốc-cữu trước đây chỉ có một mình Kiển Thạc, thực quả không dính dáng gì đến chúng tôi. Nay quốc-cữu nghe lời Viên Thiệu, muốn giết hết cả chúng tôi, thật là oan quá, xin nương nương rủ lòng thương cứu cho.

Hà-hậu nói:

- Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho.

Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung, khẽ bảo rằng:

- Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng, sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?

Hà Tiến nghe đoạn, ra bảo các quan rằng:

- Kiển Thạc bày mưu hại ta đem giết cả họ nó đi. Còn những người khác đừng nên giết hại.

Viên Thiệu nói:

- Nhổ cỏ không nhổ hết rễ, rồi có vạ đến mình!

Tiến nói:

- Ý ta đã quyết, ngươi đừng nói lắm nữa.

Các quan đều lui về cả.

Hôm sau thái-hậu cho Hà Tiến tham xét công việc các bộ thượng thư, còn các người khác đều được thăng chức.

Đổng thái-hậu nghe biết chuyện, bèn cho vời bọn Trương Nhượng vào cung phán rằng:

- Con em thằng Hà Tiến, trước kia vì ta bao bọc cất nhắc cho nó mới được nên sung nên sướng. Ngày nay con nó lên ngôi hoàng-đế, các quan trong ngoài đều là vây cánh nó cả, uy thế nó to lắm, ta biết tính sao bây giờ?

Trương Nhượng nói:

- Tâu mẫu hậu, việc đó cũng dễ. Xin mẫu hậu cứ ra ngự triều đường, rủ mành mành coi xét việc chính, phong hoàng-tử Hiệp lên tước vương, gia phong quốc cữu Đổng Trọng lên chức lớn coi giữ binh quyền, và trọng dụng bọn hạ thần thì việc lớn có thể mưu tính xong được.

Đổng thái-hậu cả mừng, sáng hôm sau lâm triều, giáng chỉ phong hoàng tử Hiệp làm Trần lưu Vương, Đổng Trọng làm phiêu-kỵ tướng-quân. Bọn Trương Nhượng cũng đều được tham dự triều chính.

Hà thái-hậu thấy Đổng thái-hậu chuyên quyền, bèn sửa một tiệc yến ở trong cung, mời Đổng thái-hậu đến dự.

Giữa tiệc, Hà thái-hậu đứng dậy, nâng chén rượu vái hai vái mà thưa rằng:

- Chúng ta đều là lũ đàn bà, không nên tham dự triều chính. Xưa bà Lã Hậu chỉ vì tham giữ trọng quyền, đến nỗi nghìn người trong họ đều bị giết. Nay chúng ta chỉ nên ở yên trong cung cấm, việc triều chính đã có các nguyên-lão đại-thần bàn tính với nhau. Thế mới là hạnh phúc cho nhà nước, cúi xin nương nương soi xét.

Đổng thái-hậu nổi giận mắng rằng:

- Mày đã đem lòng ghen ghét, đánh thuốc độc giết Vương mỹ-nhân. Nay mày cậy có con làm vua, cậy thế lực anh mày là thằng Hà Tiến, dám nói hỗn với tao à? Tao sai quan phiêu-kỵ (trỏ vào Đổng Trọng) chặt cổ anh mày dễ như trở bàn tay cho mà xem.

Hà-hậu cũng nổi xung cãi lại rằng:

- Ta đem lời phải khuyên can, mà lại trở mặt giận à?

Đổng thái-hậu càng tức, lại nhiếc móc Hà-hậu:

- Cái đồ nhà mày bán thịt, còn có kiến thức gì.

Hai người cãi nhau mãi, sau có bọn Trương Nhượng khuyên can, mới người nào về cung người ấy.

Đêm hôm ấy Hà-hậu triệu Hà Tiến vào cung, kể lại việc đã xẩy ra. Tiến về mời các quan tam-công đến thương nghị.

Buổi chầu sáng hôm sau, Tiến xui các đình thần tâu rằng:

- Đổng thái-hậu nguyên là một vị phiên phi[1], không nên để ở lâu trong cung cấm. Xin dời ngay ra an-trí ở Hà-gian, hạn lập tức phải đi ngay!

Hà Tiến một mặt sai người đưa Đổng thái-hậu đi, một mặt phái quân cấm binh đến vây nhà phiêu-kỵ tướng-quân Đổng Trọng, đòi lấy ấn thụ. Đổng Trọng biết việc chẳng lành, liền tự vẫn. Lúc người nhà cất tiếng khóc, quân sĩ mới giải vây trở về.

Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái-hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc, châu báu đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến là Vũ dương Quân, nhờ vào nói khéo với Hà thái-hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên thường-thị lại được tin dùng.

Tháng sáu năm ấy, Hà Tiến ngầm sai người đến Hà-gian đánh thuốc độc giết Đổng thái-hậu, đem linh cữu về kinh, táng ở Văn-lăng. Tiến cáo bệnh không đi đưa đám.

Một hôm quan tư-lệ hiệu-úy Viên Thiệu vào nói với Tiến rằng:

- Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê đang đi nói phao lên rằng: “Ông đánh thuốc độc giết Đổng thái-hậu, để mưu việc lớn”. Nếu bây giờ ông không giết ngay bọn chúng nó, tất có vạ lớn về sau. Xưa Đậu Vũ muốn trừ bọn yêm-hoạn trong cung, vì mưu mô không kín lại bị chúng giết, tức là cái gương sáng đó. Hiện giờ anh em vây cánh ông, đều là những tay anh tuấn, vả lại quyền ở trong tay, thật là cơ hội trời cho, không nên bỏ lỡ.

Tiến nói:

- Thong thả để sau sẽ bàn tính.

Mấy đứa tả hữu của Hà Tiến nghe lỏm được chuyện ấy, liền đi báo với Trương Nhượng. Bọn Trương Nhượng lại đem rất nhiều của báu lễ đút Hà Miêu. Miêu vào tâu Hà-hậu rằng:

- Đại tướng quân phò tá vua mới, không làm điều nhân từ, chỉ chăm chém giết. Nay tự nhiên vô cớ lại toan giết cả mười quan thường-thị, thật tự mình gây ra mầm loạn.

Hà-hậu cho là phải.

Một chốc Hà Tiến vào tâu xin giết bọn hoạn quan. Hậu nói:

- Bọn thường-thị coi sóc việc trong cung cấm, phép cũ nhà Hán từ xưa vẫn thế. Cớ sao tiên đế vừa mới chầu trời mà ngươi chỉ muốn giết những bầy tôi cũ. Thế không phải là tôn trọng sự thờ cúng đối với tiên đế!

Tiến vốn là một người đù đờ không quyết đoán, nghe Hà thái-hậu nói vậy, vâng dạ luôn miệng rồi lui ra.

Viên Thiệu đứng đón ngoài cửa, hỏi rằng:

- Việc lớn thế nào?

Tiến nói:

- Nhưng thái-hậu không nghe, thì làm thế nào?

Thiệu nói:

- Nên triệu những người anh hùng các nơi đem quân về kinh giết hết bọn yêm-hoạn này đi. Đến lúc việc đã cấp bách thì thái-hậu muốn chẳng nghe cũng chẳng được.

Tiến nói:

- Kế ấy diệu lắm!

Bèn truyền hịch đi các trấn, triệu các tướng lĩnh đem quân về kinh sư.

Quan chủ-bạ Trần Lâm can rằng:

- Việc ấy không nên. Tục ngữ có câu: “Bưng mắt bắt chim”, ấy là mình tự dối mình. Việc nhỏ mọn cũng không thể tự dối mà làm xong, huống chi là việc lớn nước nhà? Nay tướng quân dựa uy vua, cầm quyền lớn, như rồng bay hổ nhảy, muốn làm thế nào cũng được. Việc giết bọn hoạn quan thật dễ không khác quạt lò than đốt mấy sợi tóc. Làm việc một cách quyền biến, quyết đoán ngay, phát động nhanh như sấm sét tức là thuận đạo trời và lòng người. Nay nếu triệu các quan ngoại-trấn, mỗi người một bụng, biết ai thế nào? Có khác đưa chuôi dao cho người cầm mà mình cầm đằng lưỡi không? Như thế không những việc không thành mà lại sinh biến loạn nữa.

Tiến cười nói:

- Đó là kiến thức của hạng người hèn nhát!

Một người đứng lên vỗ tay cười lớn mà rằng:

- Việc ấy dễ như trở bàn tay, hà tất phải bàn cho lắm!

Chúng nhìn xem ai, người ấy chính là Tào Tháo.

Đó chí là:

Muốn giết tiểu nhân bên cạnh chúa,
Nên nghe trí sĩ ở trong triều.

Muốn biết Tào Tháo nói thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

  1. Phiên phi: vợ các tước vương tước hầu.