Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỷ hiệu đính)/Hồi 4
HỒI THỨ TƯ
Bỏ Hán-đế, Trần Lưu lên ngôi,
Lừa Đổng-tặc, Mạnh Đức dâng kiếm.
Đổng Trác muốn giết Viên Thiệu, Lý Nho can rằng:
- Việc chưa định xong không nên giết càn.
Viên Thiệu tay cầm thanh bảo kiếm, cáo từ các quan trở ra, treo trả cờ tiết ở cửa Đông rồi chạy về Ký-châu.
Trác bảo với quan thái-phó Viên Ngỗi rằng:
- Cháu ngươi vô lễ, ta tha cho nó cũng là nể ngươi... Việc bỏ vua lập Trần Lưu, ngươi nghĩ thế nào?
Ngỗi thưa rằng:
- Thái-úy nghĩ thế phải đấy!
Trác lại nói:
- Ai dám ngăn trở việc lớn này, thì ta sẽ lấy phép quân trị tội.
Các quan sợ hãi, đều nói:
- Ngài dạy thế xin vâng!
Cuộc yến tan, Trác hỏi quan thị-trung là Chu Bật và quan hiệu-úy Ngũ Quỳnh rằng:
- Viên Thiệu phen này đi, rồi sẽ ra sao?
Chu Bật đáp:
- Viên Thiệu căm giận mà đi. Hễ truy nã riết quá tất sinh biến. Vả lại họ Viên, đã bốn đời làm quan đến bậc tam công, thiên hạ được nhờ nhiều lắm; học trò, đầy tớ đâu đâu cũng có. Nếu hắn thu dùng hào kiệt, họp tập đồ đảng, rồi những anh hùng ở trong thiên hạ nhân đó khởi lên, đất Sơn-đông sẽ không ở trong tay ông nữa. Không bằng ông tha tội hắn, cho hắn một chức quận thú gì đấy, thì hắn mừng được khỏi tội, sẽ không gây ra hậu hoạn nữa.
Ngũ Quỳnh nói:
- Viên Thiệu là người thích mưu kế, nhưng không quyết đoán. Không đáng lo cho lắm. Bất nhược cứ cho hắn một chức quận-thú để thu phục lòng dân!
Trác nghe lấy làm phải, ngay hôm ấy sai người đến phong cho Thiệu làm thái-thú quận Bột-hải.
Đến mùng một tháng chín, Trác rước vua ra ngự đền Ôn-đức, họp hết cả văn võ lại.
Trác tay cầm gươm nói rằng:
- Thiên tử ngu yếu, không trị vì được, nay có một bài sách-văn đọc cho các quan nghe.
Rồi sai Lý Nho tuyên đọc:
“Vua Hiếu-linh mất sớm,
Vua sau nối ngôi, bốn bề ai ai cũng trông mong.
Nay xét ra vua ta, chất mỏng mảnh, uy nghi không được nghiêm chỉnh, ở tang biếng nhác, đức xấu đã rõ, không xứng ngôi lớn.
Hoàng thái-hậu không có mẫu-nghi, cầm chính rối loạn. Việc bà Vĩnh Lạc thái-hậu mất, dân chúng có nhiều dị nghị. Đối với Đạo tam cương, và giường Giời Đất, phải chăng có thiếu sót nhiều?
Trần lưu Vương tên Hiệp, đức hạnh nghiêm trang; khuôn phép kính cẩn; cư tang thương xót; nói năng chính đính; nhời hay tiếng tốt, thiên hạ ai ai cũng biết.
Nên nối ngôi vua, làm phép cho vạn thế!
Nay phế vua ra làm Hoằng nông Vương, thái-hậu thì phải trả quyền chính.
Xin tôn Trần lưu Vương lên làm hoàng đế,
Ứng thiên, thuận nhân, để yên bụng thiên hạ!”
Lý Nho đọc xong bài chiếu, Trác thét tả hữu vực vua xuống điện, lột tỉ thụ, bắt quỳ, ngoảnh mặt về phương bắc, xưng thần nghe chiếu; lại bắt Hà thái-hậu, cởi đồ phẩm-phục ra mà đợi chiếu.
Vua và thái-hậu kêu khóc, quần thần trông thấy ai cũng xót xa bi thảm.
Lúc ấy ở dưới thềm có một viên quan to, tức tối thét to lên rằng:
- Thằng giặc Đổng Trác kia, mày dám lập mưu lừa trời dối đất, tao lấy máu cổ họng bôi vào mặt mày bây giờ!
Nói rồi cầm cái hốt ngà xông thẳng vào đánh Đổng Trác.
Trác giận lắm, sai vũ sĩ bắt lại xem ai, thì là quan thượng-thư Đinh Quản. Trác sai đem ra chém. Quản cứ luôn mồm chửi mắng Đổng Trác cho đến lúc chết, chết rồi, thần sắc vẫn như lúc sống.
Người sau có thơ than rằng:
Giặc Đổng lòng mang dạ khuyển lang;
Cơ đồ nhà Hán đổ tan hoang,
Trong triều văn võ mồm câm cả!
Chỉ có Đinh-công thực giỏi giang;
Trác mời Trần lưu Vương lên điện. Quần thần làm lễ mừng xong rồi, Trác sai bắt Hà thái-hậu, vua và vợ vua là Đường-thị giam ở cung Vĩnh-an, khóa cửa cung, cấm quần thần không ai được vào thăm.
Thương thay! Thiếu-đế mới lên ngôi tháng tư, đến tháng chín phải phế.
Trần lưu Vương, nhờ Trác được lên ngôi trời, vốn tên là Hiệp, tên chữ là Bá Hòa, là con thứ vua Linh-đế, tức là Hiến-đế về sau. Lúc lập lên, Hiến-đế mới lên chín tuổi, cải nguyên là Sơ Bình.
Đổng Trác làm tướng quốc, lậy vua không phải xưng tên, vào chầu không phải bước rảo, lên điện được đeo gươm, tác uy tác phúc, không ai bì được.
Lý Nho khuyên Trác nên dùng những người có danh vọng để thu phục lòng người; nhân thể Lý Nho bảo Trác nên dùng Sái Ung. Trác cho vời Sái Ung, Ung không chịu đến. Trác giận sai người bảo Ung: “Hễ không đến thì giết cả họ”. Ung sợ, phải đến. Trác thấy Ung đến, mừng lắm, một tháng thăng chức ba lần, làm đến chức thị-trung, Trác rất hậu đãi.
Thiếu-đế, Hà thái-hậu và Đường-phi bị giam ở cung Vĩnh-an, đồ ăn, thức mặc, mỗi ngày một kém. Thiếu-đế không lúc nào ráo nước mắt.
Một hôm Thiếu-đế trông thấy hai con chim én bay ở trong sân, ngâm một bài thơ rằng:
Xanh xanh khúm cỏ dày!
Cặp én phất phơ bay!
Trong veo một dòng nước.
Xanh biếc mấy từng mây!
Tình cảnh nghĩ thêm chán.
Cung đền nhớ đâu đây.
Biết ai kẻ trung nghĩa,
Gỡ cho oán hận này?
Đổng Trác thường thường sai người đến dò ý tứ; hôm ấy có kẻ bắt được bài thơ đem trình Đổng Trác. Trác nói rằng:
- Làm bài thơ oán vọng này, đem giết đi có cớ rồi!
Bèn sai Lý Nho và mười vũ sĩ vào cung giết vua.
Vua và Đường-phi đương ở trên lầu, thấy người cung nữ báo rằng có Lý Nho đến, vua sợ giật mình.
Nho đem rượu thuốc độc, dâng vua.
Vua hỏi việc gì. Nho thưa:
- Ngày xuân mát mẻ, Đổng tướng quốc sai tôi đem dâng chén rượu thọ.
Thái-hậu bảo Lý Nho:
- Có phải rượu thọ thì mày thử uống trước đi!
Nho giận lắm, hỏi vua:
- Mày không uống phải không?
Rồi gọi ngay tả hữu cầm con dao với tấm lụa, để trước mặt vua, mà nói rằng:
- Rượu thọ chẳng uống, thì phải chọn hai thứ này.
Đường-phi quỳ xuống nói rằng:
- Thiếp xin thay vua uống chén rượu này, xin ngài để toàn mệnh cho hai mẹ con vua.
Lý Nho quát mắng:
- Mày là đứa nào, mà dám đòi chết thay vua?
Nho cầm chén rượu đưa cho Hà thái-hậu và bảo rằng:
- Mày phải uống trước đi!
Hà-hậu nhiếc mắng Hà Tiến là đồ vô mưu, đem giặc vào kinh sư, để có cái vạ ngày nay.
Nho bức vua phải uống rượu.
Vua nói:
- Hãy khoan! Để ta cùng thái-hậu từ biệt đã.
Vua đau xót lắm, làm bài ca như sau:
Giời đất chao, giăng sao cũng đổ,
Bỏ ngôi sao, ra chỗ phiên phong.
Bởi ai nên sự lạ lùng?
Việc đời ngán ngẩm, ròng ròng châu tuôn.
Đường-phi cũng làm bài ca rằng:
Giời nghiêng đất lại lở tan!
Phận mình, cơ thiếp, trái oan lạ thường!
Tử sinh nay đã khác đường
Một người một bóng xót thương tấm lòng!
Vua và Đường-phi ca rồi, ôm nhau mà khóc. Lý Nho lại quát mắng:
- Tướng quốc đứng chờ tin! Chúng bay dùng dằng để mong ai cứu đấy?
Thái-hậu thét mắng rằng:
- Thằng giặc Đổng kia! Mày hại mẹ con tao, rồi trời lại hại mày! Chúng bay tùng đảng làm điều ác, rồi chúng bay bị giết cả họ cho mà xem!
Nho tức lắm, hai tay lôi tuột thái-hậu xuống dưới lầu, giết chết; lại sai vũ sĩ thắt cổ Đường-phi, rót rượu độc bắt Thiếu-đế uống chết; rồi về báo Đổng Trác.
Trác sai đem táng ba mẹ con ở ngoài thành.
Trác tự bấy giờ, đêm nào cũng vào cung, thông dâm với các cung nữ, đêm thì lên ngủ trên sập rồng.
Thường thường Trác hay đem quân ra ngoài thành. Một bữa đi đến Dương-thành. Bấy giờ đang tháng hai, dân xã hội hát; con trai con gái tụ họp nhau xem hội đông. Trác sai quân vây cả lại, rồi giết sạch; cướp đàn bà con gái và của cải chất đầy xe, treo hơn mộ̣t nghìn đầu lâu ở dưới xe nối đuôi nhau kéo về kinh đô, nói phao lên rằng đi đánh giặc thắng trận. Đốt đầu lâu người ở dưới cửa thành, còn đàn bà con gái và của cải đem chia cho quân sĩ.
Quan Việt-kỵ hiệu-úy tên là Ngũ Phu, tên chữ là Đức Du, thấy Đổng Trác tàn bạo quá, tức giận lắm, thường mặc áo giáp nhỏ vào trong áo đại-trào, giắt một con dao ngắn, rình tiện dịp để giết Trác.
Một hôm Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác, rút dao ra đâm, không ngờ sức Trác khỏe hơn, hai tay ôm chặt được Phu. Lã Bố trông thấy chạy lại lôi Phu ra vật ngã xuống. Trác hỏi Ngũ Phu rằng:
- Ai xui mày làm phản?
Phu trợn mắt thét mắng rằng:
- Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao lại gọi là phản được? Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày? Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ!
Trác tức lắm, sai đem Ngũ Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác không buông miệng cho đến lúc chết.
Đời sau có thơ khen Ngũ Phu rằng:
Ngũ Phu này cũng bậc anh hùng!
Tiết liệt xem ai được thế không?
Đánh giặc, hãy còn danh tiếng để,
Nghìn thu vằng vặc mảnh gương “trung”!
Đổng Trác từ khi ấy ra vào thường đem quân giáp sĩ để hộ vệ.
Viên Thiệu bấy giờ ở Bột-hải, nghe thấy Trác lộng quyền, sai người đưa mật thư cho tư-đồ Vương Doãn, thư rằng:
“Giặc Trác dối trời bỏ chúa. Người ta đau xót đến nỗi không nỡ nói, thế mà ông cứ mặc kệ, để nó lăng ngược như con cá nhẩy vượt qua đăng, làm thinh như không nghe không thấy, sao gọi là người trung thần ái quốc? Thiệu nay chiêu tập binh mã, cũng muốn vì nhà vua, quét sạch quân giặc; nhưng chưa dám khinh động. Ông nếu cùng lòng với tôi, xin tìm cơ hội lo tính ngay đi. Có việc gì sai khiến, tôi xin vâng mệnh.”
Vương Doãn được thư, nghĩ mãi không tìm được kế gì. Một hôm đang lúc chầu ở nội-các, Doãn thấy ở đó có đủ mặt các cựu thần, bèn nói với các quan rằng:
- Hôm nay là ngày sinh nhật lão phu. Đến chiều xin mời các quan quá bước đến nhà lão phu xơi rượu.
Các quan đều nhận lời, hẹn đến chiều sẽ đến chúc thọ.
Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu-đường. Các quan đến cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt hu hu khóc.
Các quan giật mình hỏi rằng:
- Hôm nay là ngày sinh nhật của quan tư-đồ, sao ngài lại khóc như vậy?
Doãn thưa rằng:
- Nay có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu! Vì có một việc muốn nói với các vị, nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ nói thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh nhà Tần diệt nước Sở, bao nhiêu công phu mới nên được cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.
Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.
Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:
- Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không?
Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là kiệu-kỵ hiệu-úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:
- Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay ngươi không biết nghĩ báo quốc, lại nhăn răng ra mà cười à!
Tháo nói:
- Tôi cười, có phải cười gì đâu! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được thằng Đổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được đầu thằng Đổng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.
Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:
- Mạnh Đức có kế gì tài thế?
Tháo nói:
- Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân thờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan tư-đồ có con dao thất-bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.
Vương Doãn mừng lắm nói rằng:
- Nếu Mạnh Đức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm!
Doãn thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu, cất lời thề, Doãn bèn đem dao thất-bảo đưa cho. Tháo uống rượu xong, giắt dao đứng dậy đi ra. Các quan ngồi một lát rồi cũng về cả.
Hôm sau Tháo giắt dao đến tướng phủ, hỏi: “Thừa tướng ở đâu?” Đầy tớ nói: “Ngồi trong gác”. Tháo vào thấy Trác ngồi trên giường; Lã Bố đứng hầu bên cạnh.
Trác thấy Tào Tháo vào hỏi rằng:
- Mạnh Đức sao nay đến chậm thế?
Tháo nói:
- Thưa, ngựa gầy hóa đi chậm.
Trác ngoảnh lại bảo Lã Bố rằng:
- Ta có ngựa tốt ở Tây-lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh Đức.
Bố vâng lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng:
- Thằng này số nó đến lúc chết đây!
Lập tức muốn rút dao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khỏe chưa dám đâm vội.
Trác mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống, ngoảnh mặt vào trong. Tháo lại nghĩa rằng:
- Thằng này thực số chết!
Liền rút dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút dao ra sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi:
- Mạnh Đức làm gì thế?
Bấy giờ Lã Bố vừa dắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con dao, quỳ ngay xuống thưa:
- Tôi có con dao quý lắm, xin dâng thừa tướng.
Trác cầm lấy dao xem, thấy dao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc, quả là dao quý bèn đưa cho Lã Bố cất đi. Tháo còn đeo vỏ dao ở lưng, liền cởi ra, đưa nốt cho Lã Bố.
Trác đem Tháo ra xe ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử. Trác sai đem yên, cương đóng ngựa cho Tháo. Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra roi đi nước đại, thẳng hướng đông nam mà chạy.
Tào Tháo đi khỏi. Lã Bố nói với Trác rằng:
- Vừa rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm thái-sư! Thái-sư trông thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng dao!
Trác nói:
- Ta cũng hơi nghi.
Đang nói chuyện thì Lý Nho ở đâu đến. Trác hỏi Lý Nho. Nho nói:
- Tháo không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở trọ, nay sai người đến gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng dao thật, nếu thoái thác không đến, thì đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi.
Trác liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo. Lính đi một hồi lâu rồi trở về trình rằng:
- Tháo không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa Đông. Lính canh hỏi đi đâu, thì hắn nói rằng thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng.
Nho nói:
- Thôi! Không còn nghi ngờ gì nữa, nó chột dạ chạy đi trốn, tất là có bụng hành thích.
Trác nói:
- Ta tin dùng nó thế, tại sao nó lại muốn hại ta?
Nho thưa:
- Tất nhiên nó có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả.
Trác liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo, ai bắt được sẽ thưởng nghìn vàng, lại phong cho làm hầu-vạn-hộ; ai chứa chấp sẽ trị tội.
Trong khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy đến Tiêu-quận, đi qua huyện Trung-mâu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Tháo khai là khách buôn, họ là Hoàng-phủ.
Quan huyện nhìn kỹ Tháo, nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Trước ta cầu quan ở Lạc-dương đã được gặp ngươi, chính ngươi là Tào Tháo, ngươi nói dối sao được? Lính đâu, hãy đem giam xuống trại, đến mai ta sẽ giải về kinh lĩnh thưởng.
Quan huyện nói thế rồi cho quân canh cửa thành cơm no rượu say rồi về.
Đến nửa đêm, quan huyện sai người thân tín, xuống gọi Tào Tháo lên, bảo đem vào nhà sau để hỏi. Đến lúc Tháo vào, quan huyện hỏi rằng:
- Ta nghe quan thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân?
Tháo nói:
- Ngươi như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! Đã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lấy công, hà tất phải hỏi nhiều.
Quan huyện bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng:
- Anh đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu... Chưa gặp được chủ đấy thôi!
Tháo nói:
- Ông cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu không biết nghĩ báo quốc, khác gì giống muông thú! Ta phải khuất thân thờ thằng Đổng Trác, là muốn tìm cơ hội thuận tiện giết nó. Nay việc không xong, cũng là lòng trời.
Quan huyện nói:
- Mạnh Đức bây giờ định đi đâu?
Tháo nói:
- Ta muốn về làng ta; phát tờ kiểu-chiếu[1], vời cả chư hầu trong thiên hạ; khởi binh giết Đổng Trác. Ấy là sở nguyện của ta!
Quan huyện nghe nói, bèn cởi trói cho Tháo, mời ngồi lên trên thụp xuống lạy hai lạy mà nói rằng:
- Ông thực là người trung nghĩa ở đời này!
Tháo cũng lạy đáp lại, rồi hỏi tên họ, quan huyện nói:
- Tôi họ Trần, tên Cung, tên chữ là Công Đài; tôi có mẹ già và vợ con ở Đông-quận. Nay cảm bụng trung nghĩa của ông, xin bỏ chức quan này, theo ông đi trốn.
Tháo mừng lắm. Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh gươm, cưỡi một con ngựa, đi về quê Tào Tháo.
Đi được ba hôm đến Thành-cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối bùm tum bảo Cung rằng:
- Ở trong này có Lã bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào hỏi thăm tin nhà, rồi ngủ đấy một đêm, nên không?
Cung nói:
- Thế thì hay lắm!
Hai người, đến cửa xuống ngựa vào chào Lã bá Sa. Sa hỏi Tháo rằng:
- Ta nghe triều đình tầm nã anh cấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần-lưu rồi. Sao anh đến được đây?
Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã bá Sa, rồi lại trỏ vào Trần Cung nói:
- Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.
Lã bá Sa vái Trần Cung rồi nói:
- Cháu nó không gặp được ngài, thì họ Tào còn gì! Đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lại đây.
Nói xong, đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra, bảo Trần Cung:
- Nhà tôi không có rượu ngon. Để tôi sang xóm tây, mua một bình rượu ngon về uống.
Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.
Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao. Tháo bảo Trần Cung rằng:
- Lã bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện này đáng nghi đấy!
Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:
- Trói lại mà giết!
Tháo bảo Trần Cung:
- Phải rồi! Nếu ta không hạ thủ trước, thì sẽ bị bắt.
Tháo và Cung hai người cùng rút gươm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy; giết một lúc tám người. Tìm đến trong bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp chọc tiết.
Cung giật mình nói:
- Mạnh Đức ơi! Đa nghi quá, giết nhầm phải người tử tế rồi.
Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. Đi được độ hai dặm gặp Lã bá Sa cưỡi lừa về, trước yên, treo hai lọ rượu, tay xách một nắm rau quả. Sa hỏi hai người rằng:
- Hiền-điệt với sứ-quân sao lại đi?
Tháo nói:
- Tôi là người có tội, không dám ở lâu.
Lã bá Sa nói:
- Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ-quân với hiền-điệt ngại gì một đêm, xin quay ngay ngựa lại cho!
Tháo cứ tế ngựa đi. Đi được vài bước, rút gươm ra, quay ngựa trở lại, gọi Lã bá Sa hỏi:
- Ai đi đằng sau ông đấy?
Sa quay đầu lại xem. Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.
Cung cả sợ hỏi Tháo:
- Lúc nãy nhầm đã đành. Bây giờ sao lại đang tay như thế?
Tháo nói:
- Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.
Cung nói:
- Biết rằng mình nhầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa, thực là đại bất nghĩa!
Tháo nói: - Thà rằng ta phụ người, còn hơn để người phụ ta.
Cung im lặng, không nói gì nữa.
Đêm trăng sáng ròi rọi, hai người cứ phóng ngựa đi. Đi được vài dặm, vào nhà hàng ngủ. Cho ngựa ăn no, Tháo đi ngủ trước.
Cung suy nghĩ:
- Ta cũng tưởng Tào Tháo là người tốt, cho nên bỏ quan đi theo. Ai ngờ nó là hạng người tàn nhẫn. Nay để nó sống ở đời, tất có ngày gây vạ lớn.
Nghĩ vậy bèn rút gươm giết Tào Tháo...
Ấy thực rõ là:
Mang tâm hiểm độc người đâu thế?
Trác, Tháo hai tên cũng một phường!
Chưa biết Tào Tháo sống chết thế nào, xem đến hồi sau sẽ tỏ.
- ▲ Tờ chiếu tự làm ra, không phải chính tự vua ban ra.