Bước tới nội dung

Thơ Tản Đà/11

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HÁT MIỄU NÓI

Hỏi gió

Cát đâu ai bốc tung giời?
Sóng sông ai vỗ? cây đồi ai dung?
Phải rằng dì Gió hay không?
Phong-tình đem thói lạ-lùng trêu ai?
快 哉 風 也
Khoái tai phong dã!
Giống vô tình gỗ đá cũng mê-tơi.
Gặp gió đây, hỏi một đôi nhời,
Ta hỏi gió, quen ai mà phảng-phất?
此 是 沱 江 非 赤 壁。
Thử thị Đà-giang phi Xích-Bích,
也 無 諸 葛 與 周 郎[1]
Dã vô Gia-Cát dữ Chu-lang.

Ai cầu phong, mà gió tự đâu sang?
Hay mải khách văn-chương tìm kết bạn?
Gió hỡi gió, phong-trần ta đã chán,
Cánh chim bằng, chín vạn những chờ mong[2].
Nên chăng? gió cũng chiều lòng.

  1. Hai câu thơ này, nghĩa nói: Đây là sông Đà, chớ không phải khúc sông ở miền núi Xích-Bích; cũng không có ông Gia-Cát, ông Chu-Du nào.
  2. Ở sách Trang-tử, con chim bằng đè từng gió mà bay lên, cao đến chín vạn dặm.